ROBERT MULLINS INTERNATIONAL TRÒN 25 TUỔI

Thứ Tư, 23 Tháng Năm 201200:00(Xem: 121858)
ROBERT MULLINS INTERNATIONAL TRÒN 25 TUỔI
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà của văn phòng, www.rmiodp.com, tiết mục Radio, vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ.

Khi đến các văn phòng Robert Mullins International (RMI), khách dễ dàng thấy trên bàn làm việc của nhân viên văn phòng tờ nội quy làm việc của ông Robert Mullins. Người đứng đầu công ty chỉ yêu cầu nhân viên giữ nghiêm hai việc chính: chăm lo hồ sơ như việc nhà và ứng xử với nhau như anh em trong nhà. Tâm niệm này đã giúp cho các văn phòng làm tròn những ủy thác của đồng hương Việt Nam khi gửi gấm hồ sơ di trú của mình cho Robert Mullins International suốt 25 năm qua.

Chữ "duyên" đến với ông Mullins khi được cộng tác chung với ông Lê Minh Hải trong công việc di trú trợ giúp cộng đồng Việt Nam. Và hai vị giám đốc cũng không thể tưởng tượng rằng công ty và vượt qua một phần tư thế kỷ với hàng trăm ngàn hồ sơ được chăm lo như việc trong nhà.

Giải quyết hồ sơ di trú không đơn giản chút nào. Điều này ông Robert Mullins đã biết rất rõ khi làm việc trong Chương Trình Ra Đi Trật Tự (ODP). Trong suốt 25 năm qua, các văn phòng RMI tại tiểu bang California và Việt Nam đã có cơ hội giúp đỡ khoảng 1,000 hồ sơ mỗi năm sang Hoa Kỳ với nhiều diện di trú khác nhau. Từ năm 1979 đến 1999 là thời gian hoạt động tích cực của Chương Trình ODP tại Bangkok, Thái Lan. Sau khi văn phòng RMI chính thức hoạt động vào năm 1987, chúng tôi đã thường xuyên liên lạc với ODP. Chương trình ODP là phương tiện hợp lệ duy nhất mà người Việt Nam có thể di dân sang Hoa Kỳ. Cuối cùng, năm 1999, tất cả hồ sơ ODP được chuyển giao Tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn.

Những ngày đầu tiên của Chương trình ODP rất hoang mang và bất định. Lý do chính là chính phủ Hoa Kỳ chưa có đại diện ngoại giao chính thức tại Việt Nam cho đến năm 1994. Văn phòng ODP tại Bangkok chuẩn bị danh sách phỏng vấn dựa vào Giấy Báo Tin do phía Việt Nam gửi sang. Sau đó gửi Thư Mời phỏng vấn. Thông thường phải mất vài năm kể từ khi chính thức nộp đơn họ mới được phép rời khỏi Việt Nam.

Từ năm 1979 đến 1994, từng bước tiến hành Chương Trình ODP đều phải thương thảo với nhà cầm quyền Việt Nam qua các buổi bàn thảo "không chính thức" với các giới chức lãnh sự Mỹ từ văn phòng ODP Bangkok. Năm 1994, các liên hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được tái lập, và ODP ngừng nhận đơn mới từ hai chương trình tỵ nạn và HO. Một lợi điểm của việc tái lập liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là Công ty Tham vấn Di trú Robert Mullins International có thể mở văn phòng chi nhánh tại thành phố Sài Gòn.

Từ năm 1987 đến 1999, đại diện của văn phòng RMI đã hoạt động tại Bangkok để theo dõi hồ sơ, và hai ông Robert Mullins và Lê Minh Hải đã thường xuyên sang Bangkok để theo dõi các hồ sơ bảo lãnh. Năm 1999, tất cả hồ sơ ODP đã được chuyển đến Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Cũng trong năm 1999, ông Robert Mullins thường xuyên làm việc tại Sài Gòn để trực tiếp chăm sóc hoạt động của văn phòng RMI tại đây và cũng để tạo những liên lạc hữu hiệu với Tổng lãnh sự Hoa Kỳ.

Năm 1999 đánh dấu việc mở cửa Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Tiến trình cứu xét cấp chiếu khán (visa) được tiêu chuẩn hóa, phù hợp với phương pháp giải quyết chung của các Tòa lãnh sự Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Có một số luật di trú thay đổi đã giúp ích cho người dân ở Việt Nam.

Suốt 25 năm qua, nếu có dịp chia sẻ với công việc làm của RMI, mới thấy nỗi "lo bạc râu" như anh chị em nhân viên RMI thường nói khi gặp nhiều hồ sơ "gay go". Điểm qua một vài chương trình hội thoại phát thanh hàng tuần của văn phòng RMI, bà con mình có thể hình dung được phần nào nỗi lo lắng đó.

Ông Ngô Văn Tài với 35 năm tìm tự do đầy nguy khó. Từ Việt Nam băng qua Cam Bốt, bị giam cầm ở Thái Lan. Mạng sống như chỉ mành treo chuông. Văn phòng RMI đã có cơ duyên giúp gia đình ông và sau đó đưa ông đến Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2010.

Như hồ sơ xin kế quyền của gia đình chị Trần Ngọc chẳng hạn. Thân phụ cua chị lập hồ bảo lãnh hai con từ năm 2001. Nhưng đến tháng 10 năm 2007, người bảo lãnh qua đời. Chi Ngọc được biết thân nhân xin kế quyền rất khó khăn. Đa phần đều bị sở di trú bác bỏ. Chị đến với văn phòng RMI. Tháng 10 năm 2011, hai hồ sơ bảo lãnh đã được sở di trú Hoa Kỳ chấp thuận tái cứu xét.

Hay như hồ sơ xin du học rất khó khăn của em Minh Trí . Minh Trí theo mẹ sang Mỹ du lịch năm 2002. Yêu không khí tự do và thích nền giáo dục Hoa Kỳ, Minh Trí xin ở lại học và học rất giỏi. Nhưng cha mẹ nhớ con và đưa Minh Trí về lại Việt Nam cuối năm 2003. Điều thực tế là Minh Trí cảm thấy không còn phù hợp với cách giáo dục ở Việt Nam nữa. Tháng 6 năm 2006, Minh Trí nộp đơn xin du học Mỹ chính thức nhưng bị bác đơn vì đã ở Mỹ qúa hạn. Người mẹ đã liên lạc với văn phòng RMI. Mùa Hè năm đó, Minh Trí đã trở lại Hoa Kỳ với chiếu khán du học chính thức. Mẹ Minh Trí gọi đây là "kỳ tích của RMI".

Trong ngành di trú, ai cũng biết nếu lại lập hồ sơ xin miễn giảm I-601 phức tạp, khó khăn và mất nhiều thì giờ. Như hồ sơ của chị Mộng Thúy chẳng hạn. Chị sang Mỹ năm 2003 theo diện hôn thê (fiancee). Nhưng duyên mỏng nợ không thành, chị ly dị. Sau đó, chị kết hôn với anh Charles. Đơn xin chuyển diện thường trú nhân của chị bị bác bỏ vì chị qua Mỹ theo diện hôn thê. Tháng 6, 2006 chị đến với văn phòng RMI và được khuyên nên trở về Việt Nam để được chồng bảo lãnh. Chị được phỏng vấn đầu năm 2008. Lãnh sụ Mỹ bác đơn của chị vì thời gian ly dị và tái hôn chỉ cách nhau một tháng. Chị được yêu cầu nộp đơn xin miễn giảm I-601. Văn phòng RMI đã bổ túc nhiều chứng minh cần thiết và hồ sơ của chị được chấp thuận vào tháng 10 năm 2009. Chị và hai con sau đó đã đoàn tụ với chồng ở Hoa Kỳ.

Khi người chồng bảo lãnh đột ngột qua đời, người vợ ở Việt Nam sẽ ra sao? Hồ sơ của chị Hồng Hạnh là một khó khăn khác. Tháng 5, 2008, hồ sơ bảo lãnh diện hôn thê (fiancee) của chị bị từ chối. Chồng chị sau đó đến nhờ văn phòng RMI. Tháng 4, 2009, anh về Việt Nam làm hôn thú và nộp đơn bảo lãnh chị hai tháng sau đó. Chẳng may chồng chị Hạnh qua đời trong tháng 8, 2009. Văn phòng RMI chuyển hồ sơ của chị sang diện đặc biệt. Thời gian điều tra của sở di trú và lãnh sự khá lâu, nhưng chị cũng đã đến Mỹ vào tháng11 năm 2011.

Nếu vi phạm luật di trú tại một phi trường ở Hoa Kỳ, sẽ gây khó khăn cho hồ sơ di dân trong tương lai. Hồ sơ Nguyễn Đình Tuấn là thí dụ điển hình. Anh Tuấn sang Mỹ du lịch và gặp chị Bình Yên lần đầu vào tháng 7, 2006 tại Las Vegas. Anh Tuấn trở lại Mỹ lần thứ hai và bị chặn lại ở phi trường San Franciso, California vào tháng 11, 2006 vì chiếu khán (visa) của anh đã hết hạn. Đôi uyên ương này đã kết hôn tại Việt Nam vào tháng Giêng, 2008, và hồ sơ bảo lãnh lập ngay sau đó. Chị Bình Yên được phỏng vấn trong tháng 6, 2009, nhưng gặp trở ngại vì lãnh sự Hoa Kỳ cần điều tra việc anh Tuấn đến Mỹ với visa đã đến hết hạn trước đó. Vợ anh Tuấn đã gõ cửa văn phòng RMI. Sau vài tháng văn phòng theo dõi hồ sơ và liên lạc trực tiếp với Tòa lãnh sự, anh Tuấn đã đến Mỹ đoàn tụ với chị Bình Yên.

Những hồ sơ bảo lãnh cần phải chờ đợi nhiều năm thường rất lo các cháu không thể đi cùng với cha mẹ vì đã quá tuổi 21. Hồ sơ anh Minh Nguyễn là một điển hình. Anh được cả cha lẫn mẹ lập hai hồ sơ bảo lãnh, nhưng vẫn bị từ chối vì lãnh sự Hoa Kỳ nghi ngờ anh ly dị giả để đến Hoa Kỳ sớm hơn. Và cha mẹ của anh đã đến với văn phòng RMI. Sau khi việc kháng cáo thành công, hồ sơ bảo lãnh được trả về tòa lãnh sự ở Sài Gòn, nhưng một người con của anh không có tên trong danh sách phỏng vấn vì đã quá 21 tuổi. Văn phòng RMI đã can thiệp và dựa trên Đạo luật Bảo Vệ Tuổi Trẻ Em (tức CSPA) để yêu cầu thêm tên của cháu vào hồ sơ phỏng vấn. Kết quả thành công. Anh Minh Nguyễn và con đã đoàn tụ với gia đình tại Hoa Kỳ.

Suốt 25 năm qua, văn phòng Tham Vấn Di Trú Robert Mullins International có cơ hội phát triển mạnh mẽ như ngày hôm nay, cũng là nhờ vào sự thương yêu, tín nhiệm của qúy thân chủ, qúy thân hữu và bà con trong cộng đồng Việt Nam ở khắp nơi. Thay mặt toàn thể anh chị em nhân viên, Ban Giám đốc RMI xin chân thành cảm tạ qúy vị.

Văn phòng Tham Vấn Di Trú Robert Mullins International sẽ tổ chức hai ngày kỷ niệm 25 năm hoạt động vào ngày 02 tháng 06, 2012 tại thành phố San Jose và ngày 16 tháng 06, 2012 tại thành phố Westminster, California. Kính mời toàn thể quý vị vui lòng bỏ chút thì giờ quý báu đến tham dự hai buổi tổ chức nêu trên bắt đầu lúc 12 giờ trưa.
Sự hiện diện của quý vị là niềm khích lệ lớn lao nhất cho chúng tôi.

Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh và phát hình trực tiếp của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7-8PM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM và trên trang nhà của văn phòng: www.rmiodp.com, mục Radio. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: Văn Phòng mới trong khu Hanoi Plaza, trên đường Bolsa (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888 (779 Story Road, phía trước Wal Mart), Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.
Thứ Hai, 13 Tháng Mười Một 2023(Xem: 3327)
(Robert Mullins International) Đây là ý kiến của một người về cách làm thế nào để một quốc gia có thể có một xã hội đa văn hóa thành công. Một xã hội đa văn hóa là gồm các nhóm dân tộc đa dạng; việc không hòa nhập và đối địch nhau sẽ dẫn đến tự sát tập thể. Chúng ta đang bắt đầu thấy điều đó ở Hoa Kỳ. Hoa Kỳ hiện đang chứng kiến sự gia tăng các tội ác bạo lực về phân biệt chủng tộc và tội ác có động cơ từ thù hận tôn giáo. Hoa Kỳ từng là một ví dụ hiếm hoi về một nền dân chủ đa chủng tộc nhưng đơn văn hóa thực sự có hiệu quả. Những người di dân đã cố gắng hết sức để có cơ hội thành công trong một xã hội tự do có chung một nền văn hóa. Nhiều con đường dẫn đến chủ nghĩa đa văn hóa thành công ở Hoa Kỳ đã bị lãng quên. Nếu muốn Hoa Kỳ tồn tại như chúng ta đã biết, chúng ta cần ghi nhớ một số điều
Thứ Hai, 06 Tháng Mười Một 2023(Xem: 3593)
(Robert Mullins International) Một trong những điều khiến người xin chiếu khán khó chịu nhất là sự chậm trễ trong quá trình phỏng vấn ở Lãnh sự. Những sự chậm trễ này có thể do nhiều lý do, bao gồm cả Giấy INA §221(g) và Duyệt xét hành chính. 1. Chậm trễ phỏng vấn lãnh sự là gì? Sự chậm trễ trong cuộc phỏng vấn lãnh sự xảy ra khi có sự chậm trễ trong việc lên lịch hoặc hoàn tất cuộc phỏng vấn xin chiếu khán. Sự chậm trễ có thể là do số lượng đơn xin quá lớn, số lượng nhân viên hạn chế hoặc các vấn đề khác tại Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán Hoa Kỳ. 2. Hiểu về INA §221(g) trên Mẫu giấy từ chối OF-194. Mục 221(g) của Luật Di trú đề cập đến các đơn xin chiếu khán mà đòi hỏi cần phải cung cấp thêm tài liệu hoặc cần phải duyệt xét thêm. Khi viên chức lãnh sự cấp giấy OF-194 mà có mục 221g trên đó, điều đó có nghĩa là: · 221g - Viên chức yêu cầu đương đơn cần nộp thêm giấy tờ, hoặc · Duyệt xét hành chính: Đơn xin yêu cầu cần thêm các động tác hành chính trước khi đưa ra quyết định.
Thứ Hai, 30 Tháng Mười 2023(Xem: 3763)
(Robert Mullins International) Sở Di Trú đã ra mắt công cụ tự phục vụ Thay đổi Địa chỉ (E-COA) mới để giúp công dân nước ngoài cập nhật địa chỉ của họ dễ dàng hơn. Tất cả công dân nước ngoài, kể cả người có thẻ xanh, phải thông báo cho Sở Di Trú về việc thay đổi địa chỉ trong vòng 10 ngày kể từ ngày chuyển đi. Ngoài ra, điều quan trọng là phải thông báo cho Sở Di Trú biết về việc thay đổi địa chỉ, đặc biệt nếu bạn có các hồ sơ đang chờ duyệt xét mà Sở Di Trú có thể cần liên hệ với bạn hoặc gửi thông tin cho bạn - chẳng hạn như Giấy phép Làm việc hoặc Thẻ xanh. Việc chỉ thông báo cho Bưu điện Hoa Kỳ (USPS) về địa chỉ mới là chưa đủ, vì USPS thường không chuyển thư từ Sở Di Trú cho bạn. Thay vào đó, thư sẽ được trả lại cho Sở Di Trú, và bạn sẽ phải yêu cầu Sở Di Trú tìm kiếm giấy tờ cho bạn. Sử dụng E-COA cho phép bạn cập nhật tất cả các vấn đề đang chờ duyệt xét bằng một ứng dụng.
Thứ Hai, 23 Tháng Mười 2023(Xem: 4211)
(Robert Mullins International) Tị nạn Asylum là một hình thức bảo vệ, cho phép người được lưu lại ở Hoa Kỳ, tránh bị trục xuất về một quốc gia, nơi họ lo sợ bị ngược đãi hoặc bị bức hại vì lý do danh tính, tôn giáo hoặc quan điểm chính trị của họ. Theo luật pháp Hoa Kỳ và luật pháp quốc tế, những người mà gặp nguy hiểm ở quê hương họ có quyền đến các quốc gia khác để tìm kiếm sự an toàn và được xem xét yêu cầu tị nạn của họ. Để xin tị nạn Asylum tại Hoa Kỳ, người đó phải có mặt tại Hoa Kỳ. Họ cũng phải đáp ứng được định nghĩa về người tị nạn. Theo luật, người tị nạn là người không thể hoặc không muốn trở về quốc gia của họ vì lo sợ bị bức hại. Sự bức hại có thể vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính trị.
Thứ Hai, 16 Tháng Mười 2023(Xem: 3676)
(Robert Mullins International) Có một số tuyên bố trực tuyến cho rằng chính phủ Hoa Kỳ đang hỗ trợ những người di dân bất hợp pháp, bằng cách cấp cho họ 2.200 Mỹ kim mỗi tháng. Điều này là hoàn toàn không đúng sự thật. Những người vào Hoa Kỳ bất hợp pháp không có đủ điều kiện để được nhận hỗ trợ tiền mặt của liên bang. Người tị nạn refugee và những người được cấp quy chế tị nạn asylum, cũng như một số người di dân nhân đạo khác thì được hưởng một số phúc lợi công cộng nhất định, bao gồm hỗ trợ tiền mặt liên quan đến việc tái định cư ban đầu của họ, mặc dù số tiền này không cao tới 2.200 Mỹ kim mỗi tháng. Tin đồn này đến từ đâu? Từ một vị khách mời của cựu người dẫn chương trình tin tức Fox - Tucker Carlson. Vị khách mời này là một đại tá quân đội Hoa Kỳ đã nghỉ hưu đã tuyên bố rằng “mọi người mà được cho là người xin tị nạn, người di cư bất hợp pháp tràn qua biên giới ở Texas hoặc bất cứ nơi nào khác” đều được cấp một khoản hàng tháng là 2.200 Mỹ kim.
Thứ Hai, 09 Tháng Mười 2023(Xem: 3835)
(Robert Mullins International) Những người di dân Việt Nam vào Hoa Kỳ trước năm 1995 hầu hết đều là những người tị nạn chạy trốn bạo lực và đàn áp sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc. Chính sách của chính phủ Hoa Kỳ là họ không phải bị trục xuất. Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký một thỏa thuận vào năm 2008 để không trục xuất những người di dân này. Hiệp định năm 2008 nêu rõ: “Công dân Việt Nam không phải là đối tượng bị bắt trở về Việt Nam nếu đến Hoa Kỳ trước ngày 12/7/1995”. Vì vậy, chính phủ Việt Nam đã không cấp giấy thông hành để cho phép những người di dân như vậy bị trục xuất về Việt Nam. Nhưng vào năm 2017, dưới sự chỉ đạo của chính quyền Tổng thống trước, Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan (ICE) đã bắt đầu giam giữ một số người di dân trước năm 1995 trong khoảng thời gian dài. Chính phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu gây áp lực, buộc chính phủ Việt Nam cấp giấy thông hành để những người di dân trước năm 1995 có thể được quay trở về Việt Nam.
Chủ Nhật, 01 Tháng Mười 2023(Xem: 4061)
(Robert Mullins International) Vào ngày 5 tháng 9 năm 2023, Bộ Ngoại giao đã ban hành luật cuối nhằm loại bỏ Luật Gánh nặng xã hội mới của chính quyền trước. Trước luật ban hành năm 2019 của tổng thống tiền nhiệm, chỉ có phúc lợi hỗ trợ bằng tiền mặt công để duy trì thu nhập hoặc biên chế hóa dài hạn bằng chi phí của chính phủ mới được xem xét trong quyết định về gánh nặng xã hội. Luật năm 2019 của Tổng thống tiền nhiệm đã mở rộng việc kiểm tra gánh nặng xã hội bằng cách thêm vào một số yếu tố khác để xem xét, định liệu một cá nhân có khả năng trở thành gánh nặng xã hội hay không. Luật năm 2019 làm dấy lên lo ngại về nỗi sợ hãi và sự nhầm lẫn, ngăn cản những người di dân, bao gồm cả trẻ em, tiếp cận các dịch vụ và các phúc lợi của chính phủ dành cho họ.
Thứ Bảy, 23 Tháng Chín 2023(Xem: 4198)
(Robert Mullins International) Vào ngày 13 tháng 9, một thẩm phán liên bang lại nói rằng DACA là bất hợp pháp. Tuy nhiên, thẩm phán đã không ra lệnh cho các quan chức chấm dứt chương trình và những người DACA hiện hữu vẫn có thể gia hạn trạng thái DACA của họ. DACA hiện bảo vệ 580,000 người di dân “Mơ ước” khỏi bị trục xuất và cho phép họ làm việc. Tại thời điểm này, không có đơn xin DACA mới nào được tiếp nhận. Thẩm phán Hanen, tại Tòa án quận phía Nam Texas của Hoa Kỳ, cho rằng những nỗ lực của ông Biden nhằm đưa chương trình DACA vào quy chế liên bang đã không được thực hiện theo luật. Trước đây, Thẩm phán Hanen cho rằng khi ông Obama tạo ra DACA vào năm 2012, việc đó cũng không được thực hiện theo luật. Chính quyền Biden dự kiến sẽ kháng cáo quyết định của Thẩm phán Hanen và vụ việc có thể sẽ được đưa lên Tòa án Tối cao. Đây sẽ là lần thứ ba DACA lên Tòa án Tối cao nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết.
Thứ Hai, 18 Tháng Chín 2023(Xem: 4868)
(Robert Mullins International) Chính sách di dân của Hoa Kỳ có một số mục tiêu. Đầu tiên, nó giúp đoàn tụ cho các gia đình bằng cách tiếp nhận những người di dân mà đã có người thân ở Hoa Kỳ. Thứ hai, nó tiếp nhận lao động nước ngoài khi thiếu người lao động Hoa kỳ. Thứ ba, nó cung cấp nơi lánh cư cho những người nước ngoài đang phải đối mặt với sự đàn áp vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, thành viên của một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính trị. Tất cả các luật di trú của Hoa Kỳ đều có trong Đạo luật di trú và Quốc tịch (INA). Bắt đầu từ những năm 1920, luật di trú của Hoa Kỳ đã ngăn cản việc di dân của hầu hết người dân từ Châu Á, Đông Âu và Nam Mỹ.
Thứ Hai, 11 Tháng Chín 2023(Xem: 4321)
(Robert Mullins International) Luật gánh nặng xã hội thời chính quyền trước đã có tác động lớn đến người di dân ở Hoa Kỳ. Theo luật đó, người di dân có thể bị từ chối thẻ xanh nếu họ sử dụng một số phúc lợi công cộng nhất định. Khi họ nghe về Luật gánh nặng xã hội này, nhiều gia đình di dân bắt đầu rút tên ra khỏi danh sách các phúc lợi công cộng mà họ và những đứa con sinh ra ở Hoa Kỳ của họ từng có đủ điều kiện được hưởng. Khi ông Biden trở thành tổng thống, ông đã bãi bỏ chính sách của chính quyền trước. Nói cách khác, Luật gánh nặng xã hội của chính quyền trước hiện không còn tồn tại. Nó đã đi và sẽ không trở lại. Người di dân không phải lo lắng về điều đó. Sở Di Trú Hoa Kỳ đã quay trở lại Luật gánh nặng xã hội cũ của năm 1999. Luật đó thoáng và nhân đạo hơn nhiều so với luật của chính quyền trước.