ROBERT MULLINS INTERNATIONAL TRÒN 25 TUỔI

Thứ Tư, 23 Tháng Năm 201200:00(Xem: 122122)
ROBERT MULLINS INTERNATIONAL TRÒN 25 TUỔI
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên trang nhà của văn phòng, www.rmiodp.com, tiết mục Radio, vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ.

Khi đến các văn phòng Robert Mullins International (RMI), khách dễ dàng thấy trên bàn làm việc của nhân viên văn phòng tờ nội quy làm việc của ông Robert Mullins. Người đứng đầu công ty chỉ yêu cầu nhân viên giữ nghiêm hai việc chính: chăm lo hồ sơ như việc nhà và ứng xử với nhau như anh em trong nhà. Tâm niệm này đã giúp cho các văn phòng làm tròn những ủy thác của đồng hương Việt Nam khi gửi gấm hồ sơ di trú của mình cho Robert Mullins International suốt 25 năm qua.

Chữ "duyên" đến với ông Mullins khi được cộng tác chung với ông Lê Minh Hải trong công việc di trú trợ giúp cộng đồng Việt Nam. Và hai vị giám đốc cũng không thể tưởng tượng rằng công ty và vượt qua một phần tư thế kỷ với hàng trăm ngàn hồ sơ được chăm lo như việc trong nhà.

Giải quyết hồ sơ di trú không đơn giản chút nào. Điều này ông Robert Mullins đã biết rất rõ khi làm việc trong Chương Trình Ra Đi Trật Tự (ODP). Trong suốt 25 năm qua, các văn phòng RMI tại tiểu bang California và Việt Nam đã có cơ hội giúp đỡ khoảng 1,000 hồ sơ mỗi năm sang Hoa Kỳ với nhiều diện di trú khác nhau. Từ năm 1979 đến 1999 là thời gian hoạt động tích cực của Chương Trình ODP tại Bangkok, Thái Lan. Sau khi văn phòng RMI chính thức hoạt động vào năm 1987, chúng tôi đã thường xuyên liên lạc với ODP. Chương trình ODP là phương tiện hợp lệ duy nhất mà người Việt Nam có thể di dân sang Hoa Kỳ. Cuối cùng, năm 1999, tất cả hồ sơ ODP được chuyển giao Tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn.

Những ngày đầu tiên của Chương trình ODP rất hoang mang và bất định. Lý do chính là chính phủ Hoa Kỳ chưa có đại diện ngoại giao chính thức tại Việt Nam cho đến năm 1994. Văn phòng ODP tại Bangkok chuẩn bị danh sách phỏng vấn dựa vào Giấy Báo Tin do phía Việt Nam gửi sang. Sau đó gửi Thư Mời phỏng vấn. Thông thường phải mất vài năm kể từ khi chính thức nộp đơn họ mới được phép rời khỏi Việt Nam.

Từ năm 1979 đến 1994, từng bước tiến hành Chương Trình ODP đều phải thương thảo với nhà cầm quyền Việt Nam qua các buổi bàn thảo "không chính thức" với các giới chức lãnh sự Mỹ từ văn phòng ODP Bangkok. Năm 1994, các liên hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được tái lập, và ODP ngừng nhận đơn mới từ hai chương trình tỵ nạn và HO. Một lợi điểm của việc tái lập liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam là Công ty Tham vấn Di trú Robert Mullins International có thể mở văn phòng chi nhánh tại thành phố Sài Gòn.

Từ năm 1987 đến 1999, đại diện của văn phòng RMI đã hoạt động tại Bangkok để theo dõi hồ sơ, và hai ông Robert Mullins và Lê Minh Hải đã thường xuyên sang Bangkok để theo dõi các hồ sơ bảo lãnh. Năm 1999, tất cả hồ sơ ODP đã được chuyển đến Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Cũng trong năm 1999, ông Robert Mullins thường xuyên làm việc tại Sài Gòn để trực tiếp chăm sóc hoạt động của văn phòng RMI tại đây và cũng để tạo những liên lạc hữu hiệu với Tổng lãnh sự Hoa Kỳ.

Năm 1999 đánh dấu việc mở cửa Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Tiến trình cứu xét cấp chiếu khán (visa) được tiêu chuẩn hóa, phù hợp với phương pháp giải quyết chung của các Tòa lãnh sự Hoa Kỳ trên toàn thế giới. Có một số luật di trú thay đổi đã giúp ích cho người dân ở Việt Nam.

Suốt 25 năm qua, nếu có dịp chia sẻ với công việc làm của RMI, mới thấy nỗi "lo bạc râu" như anh chị em nhân viên RMI thường nói khi gặp nhiều hồ sơ "gay go". Điểm qua một vài chương trình hội thoại phát thanh hàng tuần của văn phòng RMI, bà con mình có thể hình dung được phần nào nỗi lo lắng đó.

Ông Ngô Văn Tài với 35 năm tìm tự do đầy nguy khó. Từ Việt Nam băng qua Cam Bốt, bị giam cầm ở Thái Lan. Mạng sống như chỉ mành treo chuông. Văn phòng RMI đã có cơ duyên giúp gia đình ông và sau đó đưa ông đến Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2010.

Như hồ sơ xin kế quyền của gia đình chị Trần Ngọc chẳng hạn. Thân phụ cua chị lập hồ bảo lãnh hai con từ năm 2001. Nhưng đến tháng 10 năm 2007, người bảo lãnh qua đời. Chi Ngọc được biết thân nhân xin kế quyền rất khó khăn. Đa phần đều bị sở di trú bác bỏ. Chị đến với văn phòng RMI. Tháng 10 năm 2011, hai hồ sơ bảo lãnh đã được sở di trú Hoa Kỳ chấp thuận tái cứu xét.

Hay như hồ sơ xin du học rất khó khăn của em Minh Trí . Minh Trí theo mẹ sang Mỹ du lịch năm 2002. Yêu không khí tự do và thích nền giáo dục Hoa Kỳ, Minh Trí xin ở lại học và học rất giỏi. Nhưng cha mẹ nhớ con và đưa Minh Trí về lại Việt Nam cuối năm 2003. Điều thực tế là Minh Trí cảm thấy không còn phù hợp với cách giáo dục ở Việt Nam nữa. Tháng 6 năm 2006, Minh Trí nộp đơn xin du học Mỹ chính thức nhưng bị bác đơn vì đã ở Mỹ qúa hạn. Người mẹ đã liên lạc với văn phòng RMI. Mùa Hè năm đó, Minh Trí đã trở lại Hoa Kỳ với chiếu khán du học chính thức. Mẹ Minh Trí gọi đây là "kỳ tích của RMI".

Trong ngành di trú, ai cũng biết nếu lại lập hồ sơ xin miễn giảm I-601 phức tạp, khó khăn và mất nhiều thì giờ. Như hồ sơ của chị Mộng Thúy chẳng hạn. Chị sang Mỹ năm 2003 theo diện hôn thê (fiancee). Nhưng duyên mỏng nợ không thành, chị ly dị. Sau đó, chị kết hôn với anh Charles. Đơn xin chuyển diện thường trú nhân của chị bị bác bỏ vì chị qua Mỹ theo diện hôn thê. Tháng 6, 2006 chị đến với văn phòng RMI và được khuyên nên trở về Việt Nam để được chồng bảo lãnh. Chị được phỏng vấn đầu năm 2008. Lãnh sụ Mỹ bác đơn của chị vì thời gian ly dị và tái hôn chỉ cách nhau một tháng. Chị được yêu cầu nộp đơn xin miễn giảm I-601. Văn phòng RMI đã bổ túc nhiều chứng minh cần thiết và hồ sơ của chị được chấp thuận vào tháng 10 năm 2009. Chị và hai con sau đó đã đoàn tụ với chồng ở Hoa Kỳ.

Khi người chồng bảo lãnh đột ngột qua đời, người vợ ở Việt Nam sẽ ra sao? Hồ sơ của chị Hồng Hạnh là một khó khăn khác. Tháng 5, 2008, hồ sơ bảo lãnh diện hôn thê (fiancee) của chị bị từ chối. Chồng chị sau đó đến nhờ văn phòng RMI. Tháng 4, 2009, anh về Việt Nam làm hôn thú và nộp đơn bảo lãnh chị hai tháng sau đó. Chẳng may chồng chị Hạnh qua đời trong tháng 8, 2009. Văn phòng RMI chuyển hồ sơ của chị sang diện đặc biệt. Thời gian điều tra của sở di trú và lãnh sự khá lâu, nhưng chị cũng đã đến Mỹ vào tháng11 năm 2011.

Nếu vi phạm luật di trú tại một phi trường ở Hoa Kỳ, sẽ gây khó khăn cho hồ sơ di dân trong tương lai. Hồ sơ Nguyễn Đình Tuấn là thí dụ điển hình. Anh Tuấn sang Mỹ du lịch và gặp chị Bình Yên lần đầu vào tháng 7, 2006 tại Las Vegas. Anh Tuấn trở lại Mỹ lần thứ hai và bị chặn lại ở phi trường San Franciso, California vào tháng 11, 2006 vì chiếu khán (visa) của anh đã hết hạn. Đôi uyên ương này đã kết hôn tại Việt Nam vào tháng Giêng, 2008, và hồ sơ bảo lãnh lập ngay sau đó. Chị Bình Yên được phỏng vấn trong tháng 6, 2009, nhưng gặp trở ngại vì lãnh sự Hoa Kỳ cần điều tra việc anh Tuấn đến Mỹ với visa đã đến hết hạn trước đó. Vợ anh Tuấn đã gõ cửa văn phòng RMI. Sau vài tháng văn phòng theo dõi hồ sơ và liên lạc trực tiếp với Tòa lãnh sự, anh Tuấn đã đến Mỹ đoàn tụ với chị Bình Yên.

Những hồ sơ bảo lãnh cần phải chờ đợi nhiều năm thường rất lo các cháu không thể đi cùng với cha mẹ vì đã quá tuổi 21. Hồ sơ anh Minh Nguyễn là một điển hình. Anh được cả cha lẫn mẹ lập hai hồ sơ bảo lãnh, nhưng vẫn bị từ chối vì lãnh sự Hoa Kỳ nghi ngờ anh ly dị giả để đến Hoa Kỳ sớm hơn. Và cha mẹ của anh đã đến với văn phòng RMI. Sau khi việc kháng cáo thành công, hồ sơ bảo lãnh được trả về tòa lãnh sự ở Sài Gòn, nhưng một người con của anh không có tên trong danh sách phỏng vấn vì đã quá 21 tuổi. Văn phòng RMI đã can thiệp và dựa trên Đạo luật Bảo Vệ Tuổi Trẻ Em (tức CSPA) để yêu cầu thêm tên của cháu vào hồ sơ phỏng vấn. Kết quả thành công. Anh Minh Nguyễn và con đã đoàn tụ với gia đình tại Hoa Kỳ.

Suốt 25 năm qua, văn phòng Tham Vấn Di Trú Robert Mullins International có cơ hội phát triển mạnh mẽ như ngày hôm nay, cũng là nhờ vào sự thương yêu, tín nhiệm của qúy thân chủ, qúy thân hữu và bà con trong cộng đồng Việt Nam ở khắp nơi. Thay mặt toàn thể anh chị em nhân viên, Ban Giám đốc RMI xin chân thành cảm tạ qúy vị.

Văn phòng Tham Vấn Di Trú Robert Mullins International sẽ tổ chức hai ngày kỷ niệm 25 năm hoạt động vào ngày 02 tháng 06, 2012 tại thành phố San Jose và ngày 16 tháng 06, 2012 tại thành phố Westminster, California. Kính mời toàn thể quý vị vui lòng bỏ chút thì giờ quý báu đến tham dự hai buổi tổ chức nêu trên bắt đầu lúc 12 giờ trưa.
Sự hiện diện của quý vị là niềm khích lệ lớn lao nhất cho chúng tôi.

Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh và phát hình trực tiếp của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7-8PM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM và trên trang nhà của văn phòng: www.rmiodp.com, mục Radio. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: Văn Phòng mới trong khu Hanoi Plaza, trên đường Bolsa (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888 (779 Story Road, phía trước Wal Mart), Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.
Thứ Hai, 11 Tháng Chín 2023(Xem: 4465)
(Robert Mullins International) Luật gánh nặng xã hội thời chính quyền trước đã có tác động lớn đến người di dân ở Hoa Kỳ. Theo luật đó, người di dân có thể bị từ chối thẻ xanh nếu họ sử dụng một số phúc lợi công cộng nhất định. Khi họ nghe về Luật gánh nặng xã hội này, nhiều gia đình di dân bắt đầu rút tên ra khỏi danh sách các phúc lợi công cộng mà họ và những đứa con sinh ra ở Hoa Kỳ của họ từng có đủ điều kiện được hưởng. Khi ông Biden trở thành tổng thống, ông đã bãi bỏ chính sách của chính quyền trước. Nói cách khác, Luật gánh nặng xã hội của chính quyền trước hiện không còn tồn tại. Nó đã đi và sẽ không trở lại. Người di dân không phải lo lắng về điều đó. Sở Di Trú Hoa Kỳ đã quay trở lại Luật gánh nặng xã hội cũ của năm 1999. Luật đó thoáng và nhân đạo hơn nhiều so với luật của chính quyền trước.
Thứ Hai, 28 Tháng Tám 2023(Xem: 4682)
Đây là phần cuối của loạt bài “Người di dân có du nhập văn hóa của họ không?” Hiện nay, một nghiên cứu mới cho thấy rằng, những người Mỹ da trắng sinh ra ở miền Nam chuyển đến các vùng khác của Hoa Kỳ, đã gây ảnh hưởng đến văn hóa ở nơi ở mới của họ như thế nào. Sau năm 1900, có một cuộc di cư lớn của những người da đen miền Nam đến các thành phố công nghiệp miền Bắc. Nhưng cũng có một số lượng lớn hơn những người da trắng miền Nam chuyển đến các vùng khác của đất nước, không phải đến các thành phố Đông Bắc mà thay vào đó là các bang ở phía Tây. Ở một số quận của các bang phía tây, nếu tỷ lệ người da trắng miền Nam tăng lên, thì những quận đó có nhiều khả năng ủng hộ ông Donald Trump, phản đối phá thai, xây dựng nhà thờ Tin lành, nghe nhạc đồng quê và thậm chí thích gà nướng hơn pizza.
Thứ Hai, 28 Tháng Tám 2023(Xem: 4486)
(Robert Mullins International) Các nền kinh tế định hướng tăng trưởng đòi hỏi tiết kiệm và đầu tư. Sẵn sàng tiết kiệm tiền là một đặc điểm văn hóa được tiếp tục trong các nhóm người chuyển đến nơi ở mới. Con cháu của những người di dân có hành vi tiết kiệm rất giống với nơi quê cha đất tổ của họ. Nhìn vào các khoản đóng góp hưu trí của những đứa trẻ người di dân sinh ra ở Mỹ. Các nghiên cứu cho thấy rằng những điều này tương tự như những gì xảy ra ở các quốc gia tổ tiên của họ. Hai nhóm người di dân quan tâm nhất đến việc đóng góp cho quỹ hưu trí của họ là Ireland và Ấn Độ. Tiếp theo là những người di dân đến từ Hà Lan và Thái Lan.
Thứ Hai, 21 Tháng Tám 2023(Xem: 4575)
(Robert Mullins International) Đây là phần một của loạt bài gồm có 3 phần. Một số nghiên cứu và sách vở đã cho chúng ta biết về những người di dân, những người trong nội bộ quốc gia hoặc từ quốc gia này sang quốc gia khác, đã truyền tải một số yếu tố văn hóa nhất định của họ cho con cháu của họ như thế nào. Nói cách khác, có những hành vi văn hóa nhất định không được đồng hóa hoàn toàn và không bị bỏ lại ở quê hương của họ. Điều này đã được quan sát thấy trong quá trình di dân của người miền Nam da trắng ở Hoa Kỳ, cũng như trong số những người di dân từ nước ngoài.
Thứ Ba, 15 Tháng Tám 2023(Xem: 4425)
(Robert Mullins International) Dự luật của thượng nghị sĩ Ohio là nhằm mục đích ngăn chặn hàng trăm ngàn trường hợp quá hạn chiếu khán xảy ra mỗi năm. Dự luật sẽ yêu cầu người nước ngoài có chiếu khán không di dân, chẳng hạn như khách du lịch và sinh viên, phải trả hàng ngàn Mỹ kim trước khi vào Hoa Kỳ. Dự luật được đề xuất có tên là Đạo luật Rời khỏi đúng hạn (The Timely Departure Act). Nó sẽ không áp dụng cho các công dân từ 40 quốc gia hiện đang ở trong chương trình được Miễn chiếu khán. Ngoài các quốc gia châu Âu, các quốc gia châu Á duy nhất nằm trong Chương trình được miễn chiếu khán là Brunei, Nhật Bản, Nam Hàn, Singapore và Đài Loan. Những người xin chiếu khán không di dân từ tất cả các quốc gia khác ở châu Á sẽ phải trả từ 5,000 đến 15,000 Mỹ kim dưới dạng tiền đặt cọc hoặc thanh toán bằng tiền mặt. Số tiền đó sau đó sẽ được trả lại cho họ, nếu họ rời khỏi Hoa kỳ theo các điều khoản của chiếu khán, hoặc nếu khi họ trở thành thường trú nhân tại Hoa Kỳ.
Thứ Ba, 08 Tháng Tám 2023(Xem: 4624)
(Robert Mullins International) Việc sử dụng trí tuệ nhân tạo ("AI") của Sở Di Trú có thể giúp việc duyệt xét đơn EB5 dễ dàng hơn không? Liệu sự thay đổi từ người thẩm định sang AI có ý nghĩa khách quan, hợp lý hơn không? Việc sử dụng AI tiếp tục mở rộng ở các chính phủ trong và ngoài nước, nhưng một số chuyên gia cảnh báo rằng đó không phải là giải pháp một thứ dùng được chung cho tất cả. Trên thực tế, nó có thể không hoàn toàn phù hợp với các chương trình đầu tư định cư như EB5. Thật vậy, sử dụng AI mà không chú ý đến bối cảnh có thể là một sai lầm lớn. Việc duyệt xét chương trình EB-5 tại Sở Di trú liên quan đến các quy trình rất phức tạp đối với những người duyệt xét không phải là con người. Hiện tại, AI không có khả năng xem xét tất cả các yếu tố cần thiết để đưa ra quyết định hợp lệ. Việc đánh giá các hồ sơ di dân là rất chủ quan và chỉ một số yêu cầu của đơn xin có thể được AI đảm trách thỏa đáng.
Chủ Nhật, 30 Tháng Bảy 2023(Xem: 5265)
(Robert Mullins International) Công dân Hoa Kỳ sẽ KHÔNG cần chiếu khán để đến Châu Âu bắt đầu từ năm 2024. Tuy nhiên, trước khi đi du lịch, họ sẽ phải điền vào một mẫu đơn trực tuyến. Nó được gọi là European Travel Information and Authorization (Hệ thống Khai báo thông tin và Cấp phép Du lịch Châu Âu). Điều này là cần thiết cho mỗi du khách và sẽ có phí $8.00 USD cho mỗi du khách. Người Mỹ vẫn sẽ dễ dàng đi du lịch đến Châu Âu sau khi họ hoàn thành đơn đăng ký trực tuyến đơn giản này. Hệ thống Khai báo thông tin và Cấp phép Du lịch Châu Âu không phải là chiếu khán. Đó là một quy trình ghi danh trực tuyến đơn giản và việc chấp thuận sẽ được gửi qua email cho du khách. Du khách sẽ chỉ cần điền vào mẫu đơn trực tuyến với các thông tin cá nhân cơ bản, kế hoạch du lịch và lịch sử du lịch, cùng với các câu hỏi bảo mật.
Thứ Hai, 24 Tháng Bảy 2023(Xem: 5008)
(Robert Mullins International) Theo một cuộc khảo sát gần đây, nhiều người Mỹ gốc Việt ủng hộ Đảng Cộng hòa hơn so với những người Mỹ gốc Á khác. Tuy nhiên, thế hệ trẻ người Mỹ gốc Việt có thể thay đổi điều đó. Trong nhiều thập kỷ, dân số người Mỹ gốc Á ngày càng tăng của Hoa Kỳ có xu hướng bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ. Nhưng luôn có một ngoại lệ: những người Mỹ gốc Việt từng trải qua chiến tranh. Họ giống như những người Cuba thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản ở quê nhà, và họ coi đảng Cộng hòa chống cộng nhiều hơn và ít cải cách hơn đảng Dân chủ. Sáu mươi tám phần trăm cử tri người Mỹ gốc Việt từ 50 tuổi trở lên được xác định là thuộc Đảng Cộng hòa, 58% cử tri gốc Việt trẻ tuổi được xác định là thuộc Đảng Dân chủ. Nhiều người Mỹ gốc Việt thuộc thế hệ lớn tuổi có chung một lịch sử di dân duy nhất mà việc này có tác động mạnh mẽ đến tình cảm chính trị của họ. Sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam vào năm 1973, hàng trăm ngàn người di cư cảm thấy bị đe dọa bởi chế độ Cộng sản đã chạy sang Mỹ.
Thứ Hai, 17 Tháng Bảy 2023(Xem: 4757)
(Robert Mullins International) Hoa Kỳ luôn là một xã hội có nhiều cộng đồng người di dân. Nhưng di trú vẫn còn là một chủ đề được tranh luận và chưa được hiểu rõ. Khi các chính trị gia nói về di dân, bình luận của họ thường dựa trên những chuyện tưởng tượng, thay vì thực tế. Dưới đây là một số tưởng tượng hoặc quan niệm sai lầm: Lầm tưởng số 1: Người di dân không muốn học tiếng Anh. Hoa Kỳ là nơi có nhiều người di dân quốc tế hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Gần 20% tổng số người di dân toàn cầu cư trú tại Hoa Kỳ. Ngày nay, người di dân và con cái của họ học tiếng Anh với tốc độ tương đương với người Ý, người Đức và người Đông Âu di cư vào đầu những năm 1800. Và từ năm 2009 đến 2019, tỷ lệ người di dân có thể nói tiếng Anh “rất tốt” đã tăng từ 57% lên 62%.
Chủ Nhật, 09 Tháng Bảy 2023(Xem: 5185)
(Robert Mullins International) Theo luật hiện hành, nếu những đương đơn xin Điều chỉnh Tình trạng (Thẻ Xanh) đi du lịch bên ngoài Hoa Kỳ mà không có Giấy tái nhập cảnh tạm thời (Advance Parole), Sở Di Trú coi như đơn của họ bị từ bỏ. Kết quả là lãng phí thời gian, tiền bạc và cần phải bắt đầu lại quy trình cấp thẻ xanh từ đầu. Hơn nữa, để có được Giấy tái nhập cảnh tạm thời có thể là một quá trình khó khăn. Thời gian chờ đợi để được phê duyệt Giấy tái nhập cảnh tạm thời đã bị kéo dài lên đến 9, 10 và thậm chí là hơn 24 tháng. Chính sách này đã cản trở những đương đơn xin Điều chỉnh đi thăm người thân bị bệnh hoặc tham dự các sự kiện gia đình quan trọng ở nước ngoài. Bộ Nội An (DHS) hiện đề xuất loại bỏ yêu cầu xin Giấy tái nhập cảnh tạm thời cho những người có đơn Điều chỉnh đang chờ duyệt xét và chấm dứt luật tự động từ bỏ đối với các chuyến du lịch quốc tế.