Di Dân Việt Nam Ở Hoa Kỳ

Thứ Năm, 28 Tháng Tư 201100:00(Xem: 130897)
Di Dân Việt Nam Ở Hoa Kỳ
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Mọi đóng góp ý kiến xin liên lạc 1-408-294-3888

"Quốc Hội California ghi nhận những đau khổ, thảm kịch và mất mát về sinh mạng rất lớn trong Chiến Tranh Việt Nam. Tuần lễ từ 24 tháng Tư năm 2011 đến ngày 30 tháng Tư năm 2011 được tuyên cáo là Tuần Lễ Tưởng Niệm Tháng Tư Đen. Đây là thời gian đặc biệt để người dân California dành riêng tưởng nhớ đến vô số nhân mạng bị mất trong chiến tranh Việt Nam, và hy vọng sẽ đem lại một cuộc sống công bằng, hạnh phúc và nhân đạo hơn cho người dân Việt Nam...".

Ở trên là một phần nội dung được tóm lược từ Nghị Quyết ACR-40 của Quốc Hội Tiểu Bang California thông qua ngày 04 tháng Tư năm 2011 tại thủ phủ Sacramento, nhằm đánh dấu 36 năm, kể từ ngày 30 tháng Tư năm 1975, miền Nam Việt Nam Tự Do rơi vào thảm hoạ của chủ nghĩa cộng sản. Cũng kể từ tháng Tư bi thảm này, hàng trăm ngàn người Việt đã liều thân tìm tự do trên những hải trình đầy sóng dữ, hoặc trên những chuyến bộ hành đầy hiểm nguy vượt biên giới. 36 năm nhìn lại đã hai thế hệ nối tiếp trôi qua. 36 năm nhìn lại, những di dân Việt Nam đã thành hình những cộng đồng Việt ngày càng đông đảo, vững mạnh khắp nơi trên thế giới. Hơn thế nữa, riêng tại Hoa Kỳ, như nội dung Nghị Quyết ACR-40 đã nhấn mạnh: "Quốc Hội Tiểu Bang California quyết định rằng Tháng Tư năm 2011 sẽ được công nhận là Tháng Của Người Mỹ Gốc Việt Nam' - để vinh danh một cộng đồng đã đóng góp rất nhiều vào đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội, và các lãnh vực khác...".

Không giống như các nhóm di dân khác đến từ Á Châu, di dân Việt Nam đến Hoa Kỳ phần lớn là những người tỵ nạn và tạm dung vì lý do chính trị trong các thập niên 70 và 80. Trong năm 1980, có 230.000 di dân Việt ở Hoa Kỳ, nhưng đến năm 1990, con số tăng lên gấp đôi, 540.000 người. Tổng cộng trong năm 2000, số di dân Việt tăng gần 990.000 người, và đến năm 2008 là 1.140.000 người.

Đến hôm nay, di dân Việt Nam là nhóm di dân lớn đứng hàng thứ năm tại Hoa Kỳ, sau các nhóm di dân gốc Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân, Ấn Độ và Trung Hoa. Hơn một nửa số di dân Việt sinh sống tại hai tiểu bang California và Texas, và gần một phần năm (1/5) trong số này sống tại khu thị tứ Los Angeles.

Di dân Việt chiếm hơn 10% trong tổng số di dân trong ba vùng thị tứ: Đó là vùng thị tứ New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana; vùng thị tứ liên thành phố San Jose-Sunnyvale-Santa Clara thuộc tiểu bang California; và vùng thị tứ Oklahoma City thuộc tiểu bang Oklahoma.

Hơn một phần ba (1/3) di dân Việt Nam đến Hoa Kỳ trong thập niên 1990. Hơn một nửa (1/2) di dân Việt sống tại Hoa Kỳ trong năm 2008 là phụ nữ (chiếm 51,7%).

Gần 40.000 Thường trú nhân gốc Việt đã nhập quốc tịch Mỹ trong năm 2008. Tổng cộng, có đến ba phần tư (3/4) số di dân Việt đã trở thành công dân Mỹ trong năm 2008, so với 43% trong tổng số người di dân ở Hoa Kỳ. Theo dõi thống kê về số người quốc tịch hóa, điều ngạc nhiên là có đến 67% di dân Việt nói rằng họ nói tiếng Anh "không lưu loát cho lắm". Có lẽ đây là do truyền thống khiêm tốn của nền văn hóa Á Châu.

Trong một nghiên cứu cho thấy cứ 3 trong 10 người di dân Việt "đã sống trong hoàn cảnh được cho là nghèo túng". Điều này có nghĩa là lợi tức trong gia đình của họ thấp hơn 200% bảng tiêu chuẩn nghèo đói được ấn định bởi chính phủ Hoa Kỳ. Cũng trong viễn cảnh này, chúng ta cũng cần để ý là 29% - gần một phần ba (1/3) - người dân sinh ở Mỹ cũng "đã sống trong mức được cho là nghèo túng". Và, trong những nhóm di dân khác, số phần trăm được cho là "đã sống trong hoàn cảnh được cho là nghèo túng" cao hơn 6% so với di dân Việt.

Di dân Việt Nam làm chủ căn nhà của mình nhiều hơn so với các nhóm di dân khác. Trong năm 2008, 70% di dân Việt Nam làm chủ căn nhà mà họ đang sống, so với 57% của các nhóm di dân khác.

Trong số năm người di dân Việt Nam thì có hơn một người không có bảo hiểm sức khỏe trong năm 2008, so với 13% của người dân sinh đẻ ở Mỹ.

Hỏi Đáp Di Trú

- Hỏi: Di dân Việt Nam sống nhiều nhất ở đâu trên nước Mỹ?

- Đáp: Vùng thị tứ liên thành phố Los Angeles - Long Beach - Santa Ana thuộc tiểu bang California có số di dân Việt sinh sống đông nhất, với 220.000 người hay 19%. Kế đến là khu thị tứ liên thành phố San Jose - Sunnyvale - Santa Clara, cũng thuộc tiểu bang California, với 93.000 người hay chiếm 8% di dân Việt trên nước Mỹ, và sau đó là liên thành phố Houston - Sugarland - Baytown thuộc tiểu bang Texas có 63.853 người, và kế tiếp là liên thành phố San Francisco - Oakland - Fremont thuộc tiểu bang California với 62.420 di dân Việt Nam.

- Hỏi: Về thống kê giáo dục đại học của di dân Việt Nam ra sao?

- Đáp: Trong năm 2008, có đến 24% di dân gốc Việt tuổi từ 25 trở lên có bằng cử nhân (4 năm đại học) hoặc cao hơn, so với 27% trong tổng số 32 triệu người lớn sinh ở ngoại quốc, và 28% của tất cả số người lớn sinh đẻ ở Hoa Kỳ. Thống kê này rất đáng quan tâm vì chỉ còn vài phần trăm điểm, người di dân Việt có bằng đại học sẽ tương đương với người Mỹ có bằng đại học, sinh đẻ ở Hoa Kỳ, nói tiếng Anh từ lúc lọt lòng.

Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM và sáng Chủ Nhật từ 11:00AM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM. Hoặc liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888 (Văn Phòng mới số 779 trên đường Story Road), Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com.
Chủ Nhật, 25 Tháng Chín 2022(Xem: 7642)
(Robert Mullins International) Thông tin này dựa vào bản báo cáo của Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia (NVC). Kể từ tháng 3 năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến khả năng duyệt xét đơn xin chiếu khán nhập cư của Bộ Ngoại giao. Các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ đang làm việc để tiếp tục các dịch vụ chiếu khán thông thường càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, đại dịch tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng chiếu khán mà các đại sứ quán và lãnh sự quán có thể xét duyệt. Vào những thời điểm khác nhau, quá trình duyệt xét của lãnh sự bị chậm lại hoặc tạm dừng vì các lệnh đóng cửa tại địa phương và toàn quốc; việc hạn chế đi lại; các quy định về kiểm dịch của nước sở tại; và nỗ lực của các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19.
Chủ Nhật, 18 Tháng Chín 2022(Xem: 7988)
(Robert Mullins International) Chương trình DACA đã tới lui tại các tòa án kể từ khi nó bắt đầu vào năm 2012. Một luật DACA mới đã được ban hành vào cuối tháng Tám. Ông Biden hy vọng sẽ tiếp tục DACA vì nó bảo vệ những người nhập cư đến Mỹ bất hợp pháp khi còn thơ ấu. Luật vẫn chưa đưa vào hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10 và nó vẫn là chủ đề của một vụ kiện tại Tòa án phúc thẩm khu vực 5. Vụ kiện đó tuyên bố DACA là bất hợp pháp. Vụ việc đó vẫn chưa xong và nếu có quyết định chống lại DACA thì chương trình sẽ cần phải lên Tòa án Tối cao một lần nữa. Chương trình DACA đã bị đóng đối với những đương đơn mới kể từ tháng 16 tháng 7 năm 2021 vì vụ kiện của tòa án liên Bang tại Texas, mặc dù chương trình vẫn cho phép gia hạn. Luật mới của ông Biden sẽ chưa có hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10. Chính quyền Biden hy vọng rằng việc ban hành một luật chính thức trong bộ luật liên bang sẽ bảo vệ chương trình trước tòa án liên bang.
Thứ Bảy, 10 Tháng Chín 2022(Xem: 7497)
(Robert Mullins International) Vào ngày 24 tháng 8, một nhóm vận động trong lĩnh vực EB-5 đã đạt được thỏa thuận với Sở Di Trú Hoa kỳ. Thỏa thuận khẳng định cho các Trung tâm vùng đã được chuẩn thuận trước đây sẽ duy trì trạng thái uỷ quyền của họ và không cần xin lại quy chế Trung tâm vùng. Tất cả các Trung tâm vùng, bao gồm những trung tâm đã được chuẩn thuận trước tháng 3 năm 2022, vẫn phải nộp Mẫu đơn I-956 mới và phí nộp đơn $ 17,795 trước ngày 29 tháng 12 năm 2022. Các trung tâm vùng không cần phải đợi đơn I-956 chấp thuận. Họ có thể hoạt động ngay sau khi họ nộp đơn I-956. Các Trung tâm vùng được chấp thuận trước tháng 3 năm 2022, đơn I-956 của họ phải được xem xét trước khi có Trung tâm vùng mới.
Thứ Ba, 06 Tháng Chín 2022(Xem: 8383)
(Robert Mullins International) Một cuộc phỏng vấn với Sở di trú là phần khó khăn nhất đối với người đến Hoa Kỳ có chiếu khán (visa) du lịch hoặc sinh viên du học khi kết hôn với một công dân Mỹ sau chỉ vài tháng đến Hoa Kỳ. Suy nghĩ đầu tiên trong đầu nhân viên di trú là "Làm sao họ có thể rơi vào lưới tình và kết hôn chỉ trong một thời gian ngắn như vậy?". Nhân viên Sở di trú có thể phỏng vấn cách ly hai người trong cuộc phóng vấn xin Thẻ Xanh. Nhân viên di trú có thể hỏi người chồng về màu sắc màn cửa trong phòng ngủ. Người chồng trả lời là "Xanh lá cây". Vợ anh ta trả lời cùng câu hỏi là "Xanh dương". Chỉ với những câu trả lời căn bản như vậy thôi, nhân viên di trú đã cố tìm những lý do để từ chối đơn xin điều chỉnh tình trạng cư trú.
Chủ Nhật, 28 Tháng Tám 2022(Xem: 7998)
(Robert Mullins International) Một trong những thân chủ của văn phòng Robert Mullins International mô tả lần gặp gỡ nhân viên Sở di trú giống như "một cuộc phỏng vấn nín thở qua sông", rất hồi hộp và căng thẳng. Điều chẳng có gì ngạc nhiên về những cuộc phỏng vấn với nhân viên Sở di trú sẽ rất căng thẳng với tất cả mọi người, kể cả những cặp vợ chồng có mối quan hệ trong sáng vì chẳng có gì để che dấu cả. Kể cả những cặp vợ chồng thật nhất vẫn có thể hiểu lầm câu hỏi của nhân viên phỏng vấn hoặc bị mất trí nhớ trong một thoáng nào đó, làm cho họ đưa ra những câu trả lời sai hoặc không thể chấp nhận được. Giả định rằng có một mối tình chân thật nào đó, cả hai người đều biết rằng ngày hết hạn chiếu khán du lịch hoặc du học đã gần kề, vì thế họ không màng đến việc cần có thời gian dài quen biết nhau. Tuy nhiên, nhân viên Sở di trú lại rất quan tâm về việc này.
Thứ Hai, 22 Tháng Tám 2022(Xem: 9519)
(Robert Mullins International) Kết hôn ở Việt Nam hoặc đợi kết hôn sau khi hôn phu-thê đến Hoa Kỳ, cách nào tốt hơn? Đây là thắc mắc chung của nhiều người trước khi chọn xúc tiến một loại hồ sơ bảo lãnh. Nhưng câu trả lời không dựa vào yếu tố tổng quát, mà còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của cá nhân liên hệ. Hồ sơ diện vợ chồng thường được Tòa lãnh sự tin tưởng hơn. Với diện hôn phu - thê, lãnh sự sẽ có thể muốn biết lý do chánh đáng nào hai người lại chọn cách không kết hôn ở Việt Nam? Ưu điểm của việc chọn lập một hồ sơ theo diện vị hôn phu-thê là thời gian duyệt xét nhanh hơn khoảng ½ thời gian xét diện vợ-chồng, có thể đem theo con riêng trên 18 tuổi nhưng dưới 21 tuổi. Người bảo lãnh và được bảo lãnh vẫn có thể thay đổi quyết định không tiến tới hôn nhân sau khi nhập cảnh Mỹ trước 90 ngày. Trong khi đó, khuyết điểm cũng không ít: Tự túc bảo trợ tài chánh mà không được nhờ người phụ bảo trợ. Nếu không may hồ sơ bị từ chối, người bảo lãnh không được kháng cáo hay lập một hồ sơ
Chủ Nhật, 14 Tháng Tám 2022(Xem: 9137)
(Robert Mullins International) Nên bảo lãnh diện vợ - chồng hay hôn phu - thê? Bảo lãnh diện vợ - chồng không bảo đảm là hồ sơ sẽ được Lảnh sự dễ dàng chấp thuận, nhưng hồ sơ này sẽ dễ gây ấn tượng tốt đối với nhân viên lãnh sự hơn là hồ sơ hôn phu - thê. Bảo lãnh vợ - chồng thường đòi hỏi người bảo lãnh phải có ít nhất hai chuyến đi Việt Nam - một chuyến đi để gặp mặt trực tiếp và chuyến đi thứ hai để kết hôn. Đôi khi người bảo lãnh cần phải đi chuyến thứ ba chỉ để ký giấy hôn thú vì không đủ thời gian hoàn tất thủ tục xin hôn thú rất nhiêu khê trong lần thứ hai về Việt Nam. Đó là lý do tại sao một số người chọn bảo lãnh diện hôn phu - thê. Trong cả hai diện bảo lãnh vợ - chồng và hôn phu - thê, điều quan trọng nhất vẫn là bằng chứng liên lạc: emails, thư từ, hình ảnh, liên lạc qua các mạng xã hội, những chuyến về Việt Nam, v.v… Sở di trú đôi khi đòi hỏi phải có bản sao cùi vé máy bay, hoặc những trang trong sổ thông hành (passport) có đóng mộc ghi nhận ngày đến và rời khỏi Việt N
Chủ Nhật, 07 Tháng Tám 2022(Xem: 9093)
(Robert Mullins International) Một người vợ hoặc chồng là người ngoại quốc nhập cảnh Hoa Kỳ với loại chiếu khán (visa) phi-di-dân, không vi phạm diện nhập cảnh, có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh nếu họ hợp lệ để xin chiếu khán di dân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp nộp đơn xin thẻ xanh theo diện đầu tư EB-5 trực tiếp kinh doanh, hay lao động EB-3. Chúng tôi sẽ viết về 2 diện EB này trong những kỳ tới. Nếu qúy vị là khách du lịch với chiếu khán loại B-2, hoặc là sinh viên du học, hoặc nhập cảnh với chiếu khán miễn thị thực WT, qúy vị có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh sau khi kết hôn với một công dân Mỹ.
Thứ Hai, 01 Tháng Tám 2022(Xem: 8160)
(Robert Mullins International) Tiếp theo phần 1 kỳ trước, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Chúng tôi tiếp tục giai đoạn 4 đến 6 trong thủ tục xin nhận con nuôi gồm có 6 giai đoạn. Sau khi bạn chấp nhận được kết hợp với một đứa trẻ cụ thể, bạn sẽ nộp đơn lên USCIS để được chấp thuận tạm thời cho đứa trẻ đó nhập cư vào Hoa Kỳ bằng cách nộp Mẫu I-800, Đơn Yêu cầu Phân loại Người nhận con nuôi Công ước là Người thân ngay lập tức. USCIS sẽ đưa ra quyết định tạm thời về việc liệu đứa trẻ có đáp ứng định nghĩa của một người được chấp nhận Công ước hay không và có khả năng đủ điều kiện để được nhận vào Hoa Kỳ hay không.
Thứ Hai, 25 Tháng Bảy 2022(Xem: 7590)
(Robert Mulllins International) Vào ngày 31 tháng 12 năm 2020, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Thời gian chờ đợi để nhận được giấy giới thiệu của một trẻ em được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác định đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài theo diện nhu cầu đặc biệt thường ngắn hơn so với những trẻ em khác. Việt Nam là thành viên của Công ước về con nuôi La Hay (Hague), nên việc nhận con nuôi từ Việt Nam phải tuân theo một quy trình cụ thể được thiết kế để đáp ứng các yêu cầu của Công ước. Dưới đây là một bản tóm tắt ngắn gọn về quá trình thông qua Công ước. Bạn phải hoàn thành các bước này theo thứ tự sau để đáp ứng tất cả các yêu cầu pháp lý cần thiết. Việc nhận con nuôi được hoàn thành không theo trình tự có thể gây ra sự chậm trễ đáng kể hoặc dẫn đến việc đứa trẻ không đủ điều kiện để được cấp thị thực nhập cư vào Hoa Kỳ.