Gánh Nặng Xã Hội Hay "Gánh Nặng" Cho Di Dân?

Chủ Nhật, 29 Tháng Ba 202023:10(Xem: 15240)
Gánh Nặng Xã Hội Hay "Gánh Nặng" Cho Di Dân?
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên www.Facebook.com/rmiodp vào mỗi tối  thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ, hoặc sáng thứ Năm lúc 10:00 sáng, giờ Việt Nam.

(Robert Mullins International) Trong quá khứ, nếu người bảo lãnh nộp đơn Bảo Trợ Tài Chánh I-864 tốt là điều duy nhất cần thiết để bảo đảm rằng người được bảo lãnh sẽ không là gánh nặng xã hội. Nhưng kể từ ngày 24 tháng 2 năm 2020 vừa qua, điều luật mới về gánh nặng xã hội đã có hiệu lực và đã thay đổi hòan tòan trọng tâm của đơn Bảo Trợ Tài Chánh I-864 sang một câu hỏi khó khăn khác: Liệu người được bảo lãnh có khả năng trở thành gánh nặng xã hội bất cứ lúc nào trong tương lai không?

Nói cách khác, Sở di trú và Tòa Lãnh sự hiện nay đang xem xét khả năng của đương đơn có thể tự túc lo đời sống của mình hay không, kể cả với năng khiếu hoặc với lợi tức trong gia đình ở Hoa Kỳ.

Sở di trú hiện dùng mẫu đơn I-944 - Bản Tuyên Bố Về Sự Tự Túc. Sở di trú muốn biết nếu các đương đơn xin Thẻ Xanh có từng nhận bất cứ phúc lợi xã hội về tiền mặt hay không, chẳng hạn như trợ cấp tiền mặt để duy trì lợi tức, hoặc các chương trình xã hội như SSI, TANF, GA.... Trên đơn I-944, những phúc lợi xã hội khác chỉ cần khai báo nếu đã nhận sau ngày 23 tháng 2 năm 2020, chẳng hạn như Tem Phiếu Thực Phẩm (Food Stamps), Trợ Cấp Nhà Cửa Section 8 (Section 8 Housing Assistance), Trợ Cấp Nhà Cửa Công Cộng (Public Housing) và Trợ Cấp Y Tế Với Ngân Sách Liên Bang (Federally Funded Medicaid).

Trong tương lai, Tòa lãnh sự sẽ dùng mẫu đơn mới DS-5540 - Những Câu Hỏi Về Gánh Nặng Xã Hội. Những đương đơn xin chiếu khán (visa) di dân không cần lo lắng trả lời những câu hỏi về gánh nặng xã hội. Những câu hỏi này chỉ áp dụng cho những người đã từng sống ở Hoa Kỳ và đã từng nhận một số lọai phúc lợi xã hội.

Những đơn mới của Sở di trú và Tòa lãnh sự đều hỏi về việc sử dụng những phúc lợi xã hội của đương đơn. Và cả hai lọai đơn này đều chú trọng vào việc khả năng của đương đơn có thể sống ở Hoa Kỳ mà không dựa vào những phúc lợi xã hội.

Vậy đơn I-864 sẽ ra sao? Đơn Bảo Trợ Tài Chánh I-864 của người bảo lãnh vẫn quan trọng và cần thiết, nhưng nay chỉ là một yếu tố được Sở di trú và các viên chức lãnh sự quan tâm. Họ hiện nay sẽ nhìn vào tòan cảnh, bao gồm tuổi tác, sức khỏe, số người trong gia đình, tình trạng tài chánh, những phúc lợi xã hội đã từng nhận của đương đơn, trình độ học vấn và năng khiếu của đương đơn. Tất cả những yếu tố, kèm theo đơn Bảo Trợ Tài Chánh, sẽ cho Sở di trú và viên chức lãnh sự những thông tin cần thiết để quyết định về vấn đề gánh nặng xã hội. Các viên chức này sẽ xem xét những câu trả lời về những câu hỏi căn bản như sau:

- Liệu đương đơn, cộng thêm các thành viên trong gia đình ở Hoa Kỳ, sẽ có tổng lợi tức một năm ít nhất bằng 125% theo Bảng Hướng Dẫn Về Tình Trạng Nghèo Đói Theo Tiêu Chuẩn Liên Bang hay không?

- Đương đơn có trình độ giáo dục và năng khiếu đủ để giúp họ làm việc tại Hoa Kỳ hay không?

- Liệu đương đơn sẽ có những phí tổn y tế mà không thể có bảo hiểm sức khỏe chi trả hay không?

- Liệu đương đơn sẽ có thể tự sống ở Hoa Kỳ mà không cần nhận những phúc lợi công cộng hay không?

Chữ Dùng Thay Đổi Từ "Duyệt Xét Hành Chánh" Đến "Từ Chối" Có Nghĩa Gì?

Một số hồ sơ bị hoãn lại, chưa được cấp chiếu khán (visa) di dân sau cuộc phỏng vấn. Hồ sơ này không bị từ chối nhưng Lãnh sự nói rằng cần có thêm thời gian để Duyệt Xét Hành Chính (tức Administrative Processing). Từ ngữ có vẻ lịch sự này thông thường là cần phải được kiểm tra an ninh vì vẫn chưa hòan tất. Đương đơn có thể kiểm tra tình trạng hồ sơ của họ  trên mạng điện tử Consular Electronic Application Center (CEAC). Cho đến gần đây, nếu Lãnh sự nói rằng cần "Duyệt Xét Hành Chính" có nghĩa là cần phải đợi thêm vài tháng nữa.

Đến ngày 5 tháng 3 năm 2020 vừa qua, mạng điện tử CEAC đã thay đổi chữ "Duyệt Xét Hành Chính" bằng chữ "Từ Chối" (Refused). Nhưng theo tin cập nhật từ trang mạng CEAC, đây chỉ là việc thay đổi chữ dùng và trên thực tế không thay đổi tình trạng đơn xin chiếu khán của bất kỳ ai.

Vì thế, chúng ta có thể hiểu rằng "Từ Chối" có nghĩa "Tạm Thời Hoãn Lại". Đơn xin chiếu khán không bị từ chối mà chỉ tạm thời hõan lại quyết định mà thôi. Lãnh sự không thể trả lời rằng hồ sơ sẽ bị hoãn lại bao lâu.

Tin Giả Về Việc "Du Lịch Sinh Con"

Trung Tâm Nghiên Cứu Di Trú (The Center for Immigration Studies) là một cơ quan tư nhân, không phải là cơ quan chính thức của chính phủ Hoa Kỳ. Trung tâm này vốn không mặn mà về di trú.

Trung tâm này ước đóan, từ ngày 1 tháng 7 năm 2016 đến ngày 1 tháng 7 năm 2017, có khỏang 33.000 phụ nữ đến Hoa Kỳ đặc biệt là để sinh con và rời khỏi nước này sau khi sinh. Vì kết luận này mà Tòa Bạch Ốc vô cùng quan ngại và trong tháng Giêng vừa qua, chính phủ Hoa Kỳ đã chấp thuận và thi hành một quy luật mới về việc này.

Theo quy luật mới, bất cứ sản phụ nào nộp đơn xin chiếu khán phi di dân sẽ cần phải chứng minh rằng họ không có chủ ý đến Hoa Kỳ chỉ để "sinh con làm nơi nương tựa" (anchor baby). Đây là tiếng lóng ý chỉ những sản phụ ngọai quốc cố tình đến một nước cho phép trẻ sinh ra được thụ đắc quốc tịch của nước này và dùng đứa trẻ này là "nơi  nương tựa" để sau này bảo lãnh cho cha mẹ và những người thân khác.

Tuy nhiên vẫn còn có cơ hội cho những sản phụ có thể đến Hoa Kỳ để điều trị đặc biệt về tiền sản hoặc hậu sản nếu họ có bằng chứng cho thấy đây là điều cần thiết về y tế và có đủ tài chánh để trả y phí ở Hoa Kỳ.

Chính phủ có thực sự quan tâm đến việc "sinh con làm nơi nương tựa" không? Những người nghiên cứu  việc xác nhận của chính phủ về con số 33.000 khách du lịch sinh con ở Hoa Kỳ trong một năm đã tìm thấy hai điểm: Thứ nhất, con số 33.000 là một con số quá phóng đại; Thứ hai, hầu hết những phụ nữ ngọai quốc sinh con ở Hoa Kỳ từ  năm 2016 đến 2017 đã từng ở Hoa Kỳ ít nhất là hai năm, hoặc nhiều hơn. Họ không thể là những du khách đến Mỹ chỉ để sinh con.

Những người quan tâm về di trú đã cẩn trọng kiểm chứng con số 33.000 và khi biết rằng hầu hết những bà mẹ ngọai quốc đã từng ở Hoa Kỳ trong vài năm thì con số thực về "những trẻ em được sinh ra trong chuyến du lịch" trong hai năm 2016-2017 ít hơn 2.000. Xác nhận con số 33.000 chỉ là khả năng làm tóan quá kém.

Ban hành những giới hạn với những sản phụ xin chiếu khán là một phản ứng quá đáng cho một vấn đề nhỏ. Quy luật mới áp chế việc du lịch và thương mại có thể làm cho các viên chức lãnh sự có ác cảm với những đương đơn đang mang thai.

Đại Dịch Corona Ảnh Hưởng Chính Sách Di Trú

Một số chính sách di trú của Tòa Bạch Ốc có thể làm cho cuộc khủng hỏang về sức khỏe tồi tệ hơn. Quy luật về gánh nặng xã hội, có hiệu lực từ 24 tháng 2, đã làm cho nhiều người trong những cộng đồng di dân tránh dùng một số phúc lợi xã hội về y tế mà họ được dùng hợp pháp. Họ sợ rằng tình trạng di trú của họ và các thành viên trong gia đình sẽ bị nguy hiểm.

Theo quy luật này, các viên chức có thể từ chối cấp thẻ xanh cho những di dân đang sử dụng hoặc sẽ sử dụng những phúc lợi của chính phủ. Những phúc lợi này bao gồm Trợ Cấp Y Tế (Medicaid) và những chương trình phúc lợi công cộng khác.

Các nhóm ủng hộ di dân đã yêu cầu chính phủ tạm hõan thi hành quy luật gánh nặng xã hội cho đến khi đại dịch Corona chấm dứt. Các nhóm này nói rằng quy luật gánh nặng xã hội làm yếu đi các nỗ lực của các tiểu bang, những thành phố đang ngăn chận sự lây nhiễm của bệnh này.

Hỏi Đáp Di Trú

- Hỏi: Quy luật di trú mới về gánh nặng xã hội có áp dụng cho những người không di dân, chẳng hạn như khách du lịch và sinh viên du học muốn gia hạn hoặc chuyển đổi tình trạng phi di dân của họ không?

- Đáp: Đơn mới I-539 xin gia hạn hoặc chuyển đổi tình trạng phi di dân có hỏi về việc đương đơn có từng nhận bất cứ lọai phúc lợi công cộng trong thời gian ở Hoa Kỳ hay không.

- Hỏi: Lọai lợi tức và phúc lợi nào không bị ảnh hưởng bởi quy luật gánh nặng xã hội?

- Đáp: Quy luật mới về gánh nặng xã hội không ảnh hưởng đến những phúc lợi về Thất Nghiệp, về An Sinh Xã Hội vì tàn tật, về tiền hưu trí của tiểu bang và liên bang, bao gồm phúc lợi hưu trí An Sinh Xã Hội.

Ngòai ra, quy luật này cũng không ảnh hưởng đến những phúc lợi Săn Sóc Y Tế (Medicare), Trợ Cấp Y Tế (Medicaid) dành cho những người dưới 21 tuổi và các sản phụ, những tình trạng y tế khẩn cấp, Chương Trình Bảo Hiểm Sức Khỏe Trẻ Em (CHIP) và những dịch vụ của các trường tiểu học, bao gồm việc ăn trưa.

- Hỏi: Đơn DS-5540 của Lãnh sự Hoa Kỳ hỏi về bảo hiểm sức khỏe của đương đơn xin chiếu khán di dân. Vậy đương đơn xin chiếu khán có bị yêu cầu phải có bảo hiểm sức khỏe không?

- Đáp: Việc đòi hỏi phải có bảo hiểm sức khỏe vẫn còn được tranh luận ở các tòa án Hoa Kỳ, vì thế, bảo hiểm sức khỏe không là một yêu cầu để được nhập cảnh Hoa kỳ. Tuy nhiên, có bảo hiểm sức khỏe là một yếu tố rất tích cực cho các đương đơn xin chiếu khán, nhất là những người lớn tuổi. Lãnh sự sẽ muốn biết làm sao đương đơn sẽ có thể trả những y phí, nhất là những người cao niên. Tiếc thay, điều rất khó khăn nếu muốn có bảo hiểm y tế trước khi đương đơn đến Hoa Kỳ, ngọai trừ đương đơn được thêm tên vào chương trình bảo hiểm sức khỏe của người bảo lãnh.

Quý độc giả muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM và sáng Chủ Nhật từ 12:00PM, trên các làn sóng 1430AM, 1500AM, và 106.3FM. Hoặc www.facebook.com/rmiodp. Hay liên lạc với một văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933, San Jose (408) 294-3888, Sacramento (916) 393-3388 hay Email: info@rmiodp.com
Chủ Nhật, 25 Tháng Chín 2022(Xem: 7597)
(Robert Mullins International) Thông tin này dựa vào bản báo cáo của Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia (NVC). Kể từ tháng 3 năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến khả năng duyệt xét đơn xin chiếu khán nhập cư của Bộ Ngoại giao. Các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ đang làm việc để tiếp tục các dịch vụ chiếu khán thông thường càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, đại dịch tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng chiếu khán mà các đại sứ quán và lãnh sự quán có thể xét duyệt. Vào những thời điểm khác nhau, quá trình duyệt xét của lãnh sự bị chậm lại hoặc tạm dừng vì các lệnh đóng cửa tại địa phương và toàn quốc; việc hạn chế đi lại; các quy định về kiểm dịch của nước sở tại; và nỗ lực của các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19.
Chủ Nhật, 18 Tháng Chín 2022(Xem: 7930)
(Robert Mullins International) Chương trình DACA đã tới lui tại các tòa án kể từ khi nó bắt đầu vào năm 2012. Một luật DACA mới đã được ban hành vào cuối tháng Tám. Ông Biden hy vọng sẽ tiếp tục DACA vì nó bảo vệ những người nhập cư đến Mỹ bất hợp pháp khi còn thơ ấu. Luật vẫn chưa đưa vào hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10 và nó vẫn là chủ đề của một vụ kiện tại Tòa án phúc thẩm khu vực 5. Vụ kiện đó tuyên bố DACA là bất hợp pháp. Vụ việc đó vẫn chưa xong và nếu có quyết định chống lại DACA thì chương trình sẽ cần phải lên Tòa án Tối cao một lần nữa. Chương trình DACA đã bị đóng đối với những đương đơn mới kể từ tháng 16 tháng 7 năm 2021 vì vụ kiện của tòa án liên Bang tại Texas, mặc dù chương trình vẫn cho phép gia hạn. Luật mới của ông Biden sẽ chưa có hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10. Chính quyền Biden hy vọng rằng việc ban hành một luật chính thức trong bộ luật liên bang sẽ bảo vệ chương trình trước tòa án liên bang.
Thứ Bảy, 10 Tháng Chín 2022(Xem: 7445)
(Robert Mullins International) Vào ngày 24 tháng 8, một nhóm vận động trong lĩnh vực EB-5 đã đạt được thỏa thuận với Sở Di Trú Hoa kỳ. Thỏa thuận khẳng định cho các Trung tâm vùng đã được chuẩn thuận trước đây sẽ duy trì trạng thái uỷ quyền của họ và không cần xin lại quy chế Trung tâm vùng. Tất cả các Trung tâm vùng, bao gồm những trung tâm đã được chuẩn thuận trước tháng 3 năm 2022, vẫn phải nộp Mẫu đơn I-956 mới và phí nộp đơn $ 17,795 trước ngày 29 tháng 12 năm 2022. Các trung tâm vùng không cần phải đợi đơn I-956 chấp thuận. Họ có thể hoạt động ngay sau khi họ nộp đơn I-956. Các Trung tâm vùng được chấp thuận trước tháng 3 năm 2022, đơn I-956 của họ phải được xem xét trước khi có Trung tâm vùng mới.
Thứ Ba, 06 Tháng Chín 2022(Xem: 8322)
(Robert Mullins International) Một cuộc phỏng vấn với Sở di trú là phần khó khăn nhất đối với người đến Hoa Kỳ có chiếu khán (visa) du lịch hoặc sinh viên du học khi kết hôn với một công dân Mỹ sau chỉ vài tháng đến Hoa Kỳ. Suy nghĩ đầu tiên trong đầu nhân viên di trú là "Làm sao họ có thể rơi vào lưới tình và kết hôn chỉ trong một thời gian ngắn như vậy?". Nhân viên Sở di trú có thể phỏng vấn cách ly hai người trong cuộc phóng vấn xin Thẻ Xanh. Nhân viên di trú có thể hỏi người chồng về màu sắc màn cửa trong phòng ngủ. Người chồng trả lời là "Xanh lá cây". Vợ anh ta trả lời cùng câu hỏi là "Xanh dương". Chỉ với những câu trả lời căn bản như vậy thôi, nhân viên di trú đã cố tìm những lý do để từ chối đơn xin điều chỉnh tình trạng cư trú.
Chủ Nhật, 28 Tháng Tám 2022(Xem: 7853)
(Robert Mullins International) Một trong những thân chủ của văn phòng Robert Mullins International mô tả lần gặp gỡ nhân viên Sở di trú giống như "một cuộc phỏng vấn nín thở qua sông", rất hồi hộp và căng thẳng. Điều chẳng có gì ngạc nhiên về những cuộc phỏng vấn với nhân viên Sở di trú sẽ rất căng thẳng với tất cả mọi người, kể cả những cặp vợ chồng có mối quan hệ trong sáng vì chẳng có gì để che dấu cả. Kể cả những cặp vợ chồng thật nhất vẫn có thể hiểu lầm câu hỏi của nhân viên phỏng vấn hoặc bị mất trí nhớ trong một thoáng nào đó, làm cho họ đưa ra những câu trả lời sai hoặc không thể chấp nhận được. Giả định rằng có một mối tình chân thật nào đó, cả hai người đều biết rằng ngày hết hạn chiếu khán du lịch hoặc du học đã gần kề, vì thế họ không màng đến việc cần có thời gian dài quen biết nhau. Tuy nhiên, nhân viên Sở di trú lại rất quan tâm về việc này.
Thứ Hai, 22 Tháng Tám 2022(Xem: 9379)
(Robert Mullins International) Kết hôn ở Việt Nam hoặc đợi kết hôn sau khi hôn phu-thê đến Hoa Kỳ, cách nào tốt hơn? Đây là thắc mắc chung của nhiều người trước khi chọn xúc tiến một loại hồ sơ bảo lãnh. Nhưng câu trả lời không dựa vào yếu tố tổng quát, mà còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của cá nhân liên hệ. Hồ sơ diện vợ chồng thường được Tòa lãnh sự tin tưởng hơn. Với diện hôn phu - thê, lãnh sự sẽ có thể muốn biết lý do chánh đáng nào hai người lại chọn cách không kết hôn ở Việt Nam? Ưu điểm của việc chọn lập một hồ sơ theo diện vị hôn phu-thê là thời gian duyệt xét nhanh hơn khoảng ½ thời gian xét diện vợ-chồng, có thể đem theo con riêng trên 18 tuổi nhưng dưới 21 tuổi. Người bảo lãnh và được bảo lãnh vẫn có thể thay đổi quyết định không tiến tới hôn nhân sau khi nhập cảnh Mỹ trước 90 ngày. Trong khi đó, khuyết điểm cũng không ít: Tự túc bảo trợ tài chánh mà không được nhờ người phụ bảo trợ. Nếu không may hồ sơ bị từ chối, người bảo lãnh không được kháng cáo hay lập một hồ sơ
Chủ Nhật, 14 Tháng Tám 2022(Xem: 9062)
(Robert Mullins International) Nên bảo lãnh diện vợ - chồng hay hôn phu - thê? Bảo lãnh diện vợ - chồng không bảo đảm là hồ sơ sẽ được Lảnh sự dễ dàng chấp thuận, nhưng hồ sơ này sẽ dễ gây ấn tượng tốt đối với nhân viên lãnh sự hơn là hồ sơ hôn phu - thê. Bảo lãnh vợ - chồng thường đòi hỏi người bảo lãnh phải có ít nhất hai chuyến đi Việt Nam - một chuyến đi để gặp mặt trực tiếp và chuyến đi thứ hai để kết hôn. Đôi khi người bảo lãnh cần phải đi chuyến thứ ba chỉ để ký giấy hôn thú vì không đủ thời gian hoàn tất thủ tục xin hôn thú rất nhiêu khê trong lần thứ hai về Việt Nam. Đó là lý do tại sao một số người chọn bảo lãnh diện hôn phu - thê. Trong cả hai diện bảo lãnh vợ - chồng và hôn phu - thê, điều quan trọng nhất vẫn là bằng chứng liên lạc: emails, thư từ, hình ảnh, liên lạc qua các mạng xã hội, những chuyến về Việt Nam, v.v… Sở di trú đôi khi đòi hỏi phải có bản sao cùi vé máy bay, hoặc những trang trong sổ thông hành (passport) có đóng mộc ghi nhận ngày đến và rời khỏi Việt N
Chủ Nhật, 07 Tháng Tám 2022(Xem: 9038)
(Robert Mullins International) Một người vợ hoặc chồng là người ngoại quốc nhập cảnh Hoa Kỳ với loại chiếu khán (visa) phi-di-dân, không vi phạm diện nhập cảnh, có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh nếu họ hợp lệ để xin chiếu khán di dân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp nộp đơn xin thẻ xanh theo diện đầu tư EB-5 trực tiếp kinh doanh, hay lao động EB-3. Chúng tôi sẽ viết về 2 diện EB này trong những kỳ tới. Nếu qúy vị là khách du lịch với chiếu khán loại B-2, hoặc là sinh viên du học, hoặc nhập cảnh với chiếu khán miễn thị thực WT, qúy vị có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh sau khi kết hôn với một công dân Mỹ.
Thứ Hai, 01 Tháng Tám 2022(Xem: 8103)
(Robert Mullins International) Tiếp theo phần 1 kỳ trước, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Chúng tôi tiếp tục giai đoạn 4 đến 6 trong thủ tục xin nhận con nuôi gồm có 6 giai đoạn. Sau khi bạn chấp nhận được kết hợp với một đứa trẻ cụ thể, bạn sẽ nộp đơn lên USCIS để được chấp thuận tạm thời cho đứa trẻ đó nhập cư vào Hoa Kỳ bằng cách nộp Mẫu I-800, Đơn Yêu cầu Phân loại Người nhận con nuôi Công ước là Người thân ngay lập tức. USCIS sẽ đưa ra quyết định tạm thời về việc liệu đứa trẻ có đáp ứng định nghĩa của một người được chấp nhận Công ước hay không và có khả năng đủ điều kiện để được nhận vào Hoa Kỳ hay không.
Thứ Hai, 25 Tháng Bảy 2022(Xem: 7458)
(Robert Mulllins International) Vào ngày 31 tháng 12 năm 2020, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Thời gian chờ đợi để nhận được giấy giới thiệu của một trẻ em được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác định đủ điều kiện làm con nuôi nước ngoài theo diện nhu cầu đặc biệt thường ngắn hơn so với những trẻ em khác. Việt Nam là thành viên của Công ước về con nuôi La Hay (Hague), nên việc nhận con nuôi từ Việt Nam phải tuân theo một quy trình cụ thể được thiết kế để đáp ứng các yêu cầu của Công ước. Dưới đây là một bản tóm tắt ngắn gọn về quá trình thông qua Công ước. Bạn phải hoàn thành các bước này theo thứ tự sau để đáp ứng tất cả các yêu cầu pháp lý cần thiết. Việc nhận con nuôi được hoàn thành không theo trình tự có thể gây ra sự chậm trễ đáng kể hoặc dẫn đến việc đứa trẻ không đủ điều kiện để được cấp thị thực nhập cư vào Hoa Kỳ.