Tình Trạng Phụ Nữ Di Dân Trên Thế Giới (phần 2)

Thứ Năm, 21 Tháng Chín 200600:00(Xem: 112613)
Tình Trạng Phụ Nữ Di Dân Trên Thế Giới (phần 2)

Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân.  Mọi đóng góp ý kiến xin liên lạc 1-800-411-0495


Kỳ trước, Văn phòng Tham vấn Di trú Robert Mullins International đã trích đăng phần đàu bài viết của ký giả Phương Anh của đài Á Châu Tự Do, phổ biến ngày 13/9/2006, để chúng ta có thể tìm hiểu thêm về thực trạng của người phụ nữ di dân trên thế giới.
Vào ngày thứ tư, 6 tháng 9 vừa qua, Quỹ Dân Số Thế Giới đã tổ chức hội thảo và phát hành tài liệu báo cáo về tình trạng của những phụ nữ di dân ngày nay ở các nước phát triển. Đây là một công trình rất quan trọng vì nó nói lên những bất công mà phụ nữ di dân đang phải gánh chịu.

Trong phần một của bài "Tình Trạng Phụ Nữ Di Dân Trên Thế Giới", chúng ta đã được biết một điều thực tế rất quan trọng là đối với họ sự di dân là đi tìm một lối thoát, một sự tự do cho chính họ và gia đình của họ. Có đến 95 % phụ nữ di dân hiện là những thành phần kinh tế chính của một số đông các quốc gia và ngay tại Hoa Kỳ. Họ là những người đi làm kiếm tiền để gửi về cho gia đình và con cái của họ còn đang ở quê nhà. Trong năm 2005, số tiền mà những phụ nữ di dân đã gửi về cho gia đình của họ lên đến 232 tỷ Mỹ kim. Thế nhưng, hình như ít có ai để ý đến điều này. Những phụ nữ di dân này đang bị kỳ thị vì chủng tộc, vì tuổi tác hoặc bị phân biệt đối xử vì họ đến từ quốc gia nào đó.

Chúng ta cũng được biết thảm trạng của nhiều phụ nữ di dân bị lạm dụng về tình dục. Nhiều người phải làm việc rất nhiều giờ với đồng lương rất thấp. Có những phụ nữ di dân đã bị chồng đánh đập hành hung nhưng không dám rời bỏ người phối ngẫu vì họ bị lệ thuộc trong vấn đề hợp pháp thường trú khi mới chỉ có Thẻ Xanh 2 năm. Có những phụ nữ mang thai và bị bỏ rơi, rồi cũng không được chăm sóc đầy đủ về y tế.

Phụ nữ di dân còn là nạn nhân của những kẻ buôn người trong thế kỷ 21 này. 85% nạn nhân của bọn buôn người là phụ nữ và trẻ em. Hầu hết đều bị bán vào ổ mãi dâm, làm nô lệ tình dục... Họ đều được hứa hẹn sẽ có việc làm tốt trước khi di dân nhưng cuối cùng họ lại rơi vào tình trạng vô cùng thê thảm. Có những phụ nữ phải lao động cật lực trong các nhà máy, và đã bị lừa cùng với những đàn ông di dân đến làm việc vô cùng cực khổ trong những nông trại. Họ khó lòng thoát ra được vì bị bọn buôn người tìm cách canh giữ hay buộc phải ký giấy nợ .

Nữ dân biểu ở bang New York, bà Carolyn Maloney, người đã ủng hộ rất nhiều cho việc hoàn tất công trình nghiên cứu về những phụ nữ di dân, đã cho biết thêm là hiện nay, chính phủ Hoa Kỳ rất quan tâm đến vấn đề này. Là một trong những người đóng vai trò hàng đầu trong việc thảo những dự luật để chống lại tệ buôn bán phụ nữ, bà nói:

"Đã có nhiều luật được thông qua trong tháng giêng vừa qua. Nhất là việc cấm việc buôn bán tình dục. Tôi cũng làm việc với quốc hội về chuyện kiểm tra các khoản kinh doanh của những tổ chức mua bán tình dục. Trong nhiều năm qua, tôi đã làm việc với chính quyền New York để đóng cửa các "tour tình dục" mà cơ sở chính của họ đặt tại New York, chẳng hạn như "Big Apple Tour", họ đã quảng cáo là nếu ai đi tour của họ, sẽ được cung cấp các cô trinh nữ trẻ của Thái Lan, Philippines...

Trong năm vừa qua, tôi đã yêu cầu chính phủ phải có ra luật nghiêm khắc hơn là những bọn buôn người ngoài chuyện đi tù tăng thêm tối đa 10 năm, tiền phạt tăng thêm từ 35 ngàn đến 50 ngàn. Sở thuế IRS sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc này và những nạn nhân chịu làm nhân chứng sẽ được bồi hoàn.

Vai trò của người làm luật

Cũng có mặt trong buổi công bố tài liệu này, bà Kathleen Newland, giám đốc của Viện Nghiên Cứu Chính Sách về Di dân, trụ sở ở Washington D.C. đã nhấn mạnh đến vai trò của các nhà làm luật. Bà nói:

"Bản báo cáo này có giá trị rất tốt vì đây là lần đầu tiên những vấn đề của phụ nữ di dân được phổ biến rộng rãi. Những ai quan tâm đến vấn đề phụ nữ di dân đều được biết rằng càng ngày vai trò của họ trở nên quan trọng ở các nước phát triển. Mặt khác, đã có những báo cáo về sự thiệt thòi của họ nhưng không được phổ biến rộng rãi.

Những thiệt thòi của họ không ai chú ý tới. Tài liệu này sẽ giúp cho những nhà làm chính sách hiểu biết rõ hơn, nhưng như quí vị cũng biết, không dễ gì để thông qua một điều luật nào đó để bênh vực cho những người di dân, huống hồ họ lại là những phụ nữ nữa, và càng khó khăn hơn đối với những phụ nữ không có giấy tờ, chẳng hạn như những phụ nữ vượt biên giới vào Mỹ, hoặc bị bọn buôn người đưa đến. Tôi thiết nghĩ rằng, đã đến lúc các nhà làm luật cần phải tìm ra một giải pháp để bảo vệ cho họ."

Riêng với giáo sư Susan Forbes Martin, hiện là khoa trưởng khoa Di dân Quốc Tế của trường đại học Georgetown, thì nhắc đến vấn đề an sinh xã hội của phụ nữ di dân hiện đang có mặt tại các nước phát triển, trong đó có Hoa Kỳ. Bà nói: "Tôi muốn nhấn mạnh đến điểm quan trọng mà chúng ta cần phải chú ý đến: Đó là đời sống của những phụ nữ di dân hiện đang có mặt ở những nước phát triển. Vì trở ngại về ngôn ngữ, họ không được trợ giúp về an sinh, về sức khoẻ. Những phụ nữ đang là nạn nhân của bọn buôn người không biết cách để tìm kiếm sự trợ giúp.

Tôi nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta phải lên tiếng để yêu cầu chính phủ bảo vệ những quyền lợi của phụ nữ di dân, chẳng những về đời sống mà còn về kinh tế nữa. Thí dụ, những phụ nữ di dân gửi tiền về cho gia đình phải biết nơi nào gửi tốt nhất để không bị ăn chặn. Có những phụ nữ di dân khi đến các nước phát triển đã từng là những người có trình độ và kỹ thuật cao, thế nhưng họ bị thiệt thòi, bị bóc lột.

Thế nên, thật là cần thiết để làm sao giúp cho họ có một cơ hội tốt hơn để họ tự bảo vệ được chính bản thân họ. Tôi rất mừng là sau một thời gian dài, cơ quan UNFPA đã hoàn tất tài liệu quan trọng này. Nó sẽ giúp cho vấn đề của các phụ nữ di dân được quan tâm đến."

Tốn nhiều công sức

Trở lại với bà Maria Jose Acalá, sau khi đã tốn rất nhiều công sức để hoàn tất công trình nghiên cứu này, bà cho rằng:

"Tôi nghĩ rằng những phụ nữ di dân phải được bảo vệ về nhân quyền. Có nghĩa là phụ nữ di dân phải được đối xử công bằng như mọi người khác. Không một phụ nữ di dân nào phải chịu sự hành hung của các ông chồng bản xứ chỉ vì sợ bị trục xuất về nước, bị mất con... hay bị hành hạ bởi những chủ nhân. Tất cả phụ nữ di dân đều phải được hưởng quyền lợi về y tế, đều phải được chăm sóc tử tế và công bình."

Quí vị và các bạn vừa nghe những phát biểu của các phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng trong việc cải tổ đời sống của những phụ nữ di dân trên toàn cầu. Ngày nay, hiện tượng các phụ nữ rời bỏ quê hương của mình để mưu sinh ở đất lạ quê người càng ngày càng tăng.

Hầu như mục đích di dân của họ là để kiếm tiền để gửi về cho gia đình còn ở quê nhà. Vậy mà biết bao thảm cảnh đã xảy ra cho chính bản thân họ. Không chỉ riêng những phụ nữ ở các nước Trung Mỹ, Châu Phi, Ấn Độ, Trung Hoa, Thái Lan, Philippines... mà còn cả ở Việt Nam cũng vậy.

Đã có hàng trăm trường hợp thương tâm xảy ra cho các phụ nữ Việt Nam ở trên xứ người. Thế nhưng, vì nhu cầu cuộc sống cho gia đình, vẫn có những phụ nữ chấp nhận rời bỏ quê hương để mong tìm một chân trời mới. Không biết đến bao giờ mới chấm dứt tình trạng này?

Quý độc giả quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM và sáng Chủ Nhật từ 11:00AM, trên các làn sóng 68AM, 1430AM, 1500AM, và 106.3FM. Hoặc quý vị liên lạc với một trong những văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888, Oakland-San Francisco: (510) 533-8228, Sacramento (916) 393-3388 hay qua Email: info@rmiodp.com.

Chủ Nhật, 02 Tháng Mười 2022(Xem: 9833)
(Robert Mullins International) Ngày 26 tháng 9: Người dân California hiện có thể nhận được thẻ ID của tiểu bang, bất kể tình trạng di trú như thế nào, theo luật do Thống đốc Gavin Newsom ký vào ngày 23 tháng 9. Thống đốc Newsom cho biết ông tự hào thông báo luật này để hỗ trợ thêm cho cộng đồng người di dân của chúng ta. Một luật đã được thông qua vào năm 2013, cho phép cư dân California có bằng lái xe, nhưng dự luật được ký vào ngày 23 tháng 9 sẽ cho phép những người không lái xe có được thẻ ID do chính phủ cấp, ngay cả khi họ không phải là người nhập cư hợp pháp. Các chính trị gia California đang gọi những thẻ ID này là "giấy thông hành để tham gia kinh tế và xã hội", cho phép các cá nhân tiếp cận các dịch vụ ngân hàng, nhận các phúc lợi của chính phủ và chăm sóc sức khỏe.
Chủ Nhật, 25 Tháng Chín 2022(Xem: 7645)
(Robert Mullins International) Thông tin này dựa vào bản báo cáo của Trung Tâm Chiếu Khán Quốc Gia (NVC). Kể từ tháng 3 năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến khả năng duyệt xét đơn xin chiếu khán nhập cư của Bộ Ngoại giao. Các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ đang làm việc để tiếp tục các dịch vụ chiếu khán thông thường càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, đại dịch tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng chiếu khán mà các đại sứ quán và lãnh sự quán có thể xét duyệt. Vào những thời điểm khác nhau, quá trình duyệt xét của lãnh sự bị chậm lại hoặc tạm dừng vì các lệnh đóng cửa tại địa phương và toàn quốc; việc hạn chế đi lại; các quy định về kiểm dịch của nước sở tại; và nỗ lực của các đại sứ quán và lãnh sự quán Hoa Kỳ để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19.
Chủ Nhật, 18 Tháng Chín 2022(Xem: 7990)
(Robert Mullins International) Chương trình DACA đã tới lui tại các tòa án kể từ khi nó bắt đầu vào năm 2012. Một luật DACA mới đã được ban hành vào cuối tháng Tám. Ông Biden hy vọng sẽ tiếp tục DACA vì nó bảo vệ những người nhập cư đến Mỹ bất hợp pháp khi còn thơ ấu. Luật vẫn chưa đưa vào hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10 và nó vẫn là chủ đề của một vụ kiện tại Tòa án phúc thẩm khu vực 5. Vụ kiện đó tuyên bố DACA là bất hợp pháp. Vụ việc đó vẫn chưa xong và nếu có quyết định chống lại DACA thì chương trình sẽ cần phải lên Tòa án Tối cao một lần nữa. Chương trình DACA đã bị đóng đối với những đương đơn mới kể từ tháng 16 tháng 7 năm 2021 vì vụ kiện của tòa án liên Bang tại Texas, mặc dù chương trình vẫn cho phép gia hạn. Luật mới của ông Biden sẽ chưa có hiệu lực cho đến ngày 31 tháng 10. Chính quyền Biden hy vọng rằng việc ban hành một luật chính thức trong bộ luật liên bang sẽ bảo vệ chương trình trước tòa án liên bang.
Thứ Bảy, 10 Tháng Chín 2022(Xem: 7500)
(Robert Mullins International) Vào ngày 24 tháng 8, một nhóm vận động trong lĩnh vực EB-5 đã đạt được thỏa thuận với Sở Di Trú Hoa kỳ. Thỏa thuận khẳng định cho các Trung tâm vùng đã được chuẩn thuận trước đây sẽ duy trì trạng thái uỷ quyền của họ và không cần xin lại quy chế Trung tâm vùng. Tất cả các Trung tâm vùng, bao gồm những trung tâm đã được chuẩn thuận trước tháng 3 năm 2022, vẫn phải nộp Mẫu đơn I-956 mới và phí nộp đơn $ 17,795 trước ngày 29 tháng 12 năm 2022. Các trung tâm vùng không cần phải đợi đơn I-956 chấp thuận. Họ có thể hoạt động ngay sau khi họ nộp đơn I-956. Các Trung tâm vùng được chấp thuận trước tháng 3 năm 2022, đơn I-956 của họ phải được xem xét trước khi có Trung tâm vùng mới.
Thứ Ba, 06 Tháng Chín 2022(Xem: 8395)
(Robert Mullins International) Một cuộc phỏng vấn với Sở di trú là phần khó khăn nhất đối với người đến Hoa Kỳ có chiếu khán (visa) du lịch hoặc sinh viên du học khi kết hôn với một công dân Mỹ sau chỉ vài tháng đến Hoa Kỳ. Suy nghĩ đầu tiên trong đầu nhân viên di trú là "Làm sao họ có thể rơi vào lưới tình và kết hôn chỉ trong một thời gian ngắn như vậy?". Nhân viên Sở di trú có thể phỏng vấn cách ly hai người trong cuộc phóng vấn xin Thẻ Xanh. Nhân viên di trú có thể hỏi người chồng về màu sắc màn cửa trong phòng ngủ. Người chồng trả lời là "Xanh lá cây". Vợ anh ta trả lời cùng câu hỏi là "Xanh dương". Chỉ với những câu trả lời căn bản như vậy thôi, nhân viên di trú đã cố tìm những lý do để từ chối đơn xin điều chỉnh tình trạng cư trú.
Chủ Nhật, 28 Tháng Tám 2022(Xem: 8001)
(Robert Mullins International) Một trong những thân chủ của văn phòng Robert Mullins International mô tả lần gặp gỡ nhân viên Sở di trú giống như "một cuộc phỏng vấn nín thở qua sông", rất hồi hộp và căng thẳng. Điều chẳng có gì ngạc nhiên về những cuộc phỏng vấn với nhân viên Sở di trú sẽ rất căng thẳng với tất cả mọi người, kể cả những cặp vợ chồng có mối quan hệ trong sáng vì chẳng có gì để che dấu cả. Kể cả những cặp vợ chồng thật nhất vẫn có thể hiểu lầm câu hỏi của nhân viên phỏng vấn hoặc bị mất trí nhớ trong một thoáng nào đó, làm cho họ đưa ra những câu trả lời sai hoặc không thể chấp nhận được. Giả định rằng có một mối tình chân thật nào đó, cả hai người đều biết rằng ngày hết hạn chiếu khán du lịch hoặc du học đã gần kề, vì thế họ không màng đến việc cần có thời gian dài quen biết nhau. Tuy nhiên, nhân viên Sở di trú lại rất quan tâm về việc này.
Thứ Hai, 22 Tháng Tám 2022(Xem: 9526)
(Robert Mullins International) Kết hôn ở Việt Nam hoặc đợi kết hôn sau khi hôn phu-thê đến Hoa Kỳ, cách nào tốt hơn? Đây là thắc mắc chung của nhiều người trước khi chọn xúc tiến một loại hồ sơ bảo lãnh. Nhưng câu trả lời không dựa vào yếu tố tổng quát, mà còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của cá nhân liên hệ. Hồ sơ diện vợ chồng thường được Tòa lãnh sự tin tưởng hơn. Với diện hôn phu - thê, lãnh sự sẽ có thể muốn biết lý do chánh đáng nào hai người lại chọn cách không kết hôn ở Việt Nam? Ưu điểm của việc chọn lập một hồ sơ theo diện vị hôn phu-thê là thời gian duyệt xét nhanh hơn khoảng ½ thời gian xét diện vợ-chồng, có thể đem theo con riêng trên 18 tuổi nhưng dưới 21 tuổi. Người bảo lãnh và được bảo lãnh vẫn có thể thay đổi quyết định không tiến tới hôn nhân sau khi nhập cảnh Mỹ trước 90 ngày. Trong khi đó, khuyết điểm cũng không ít: Tự túc bảo trợ tài chánh mà không được nhờ người phụ bảo trợ. Nếu không may hồ sơ bị từ chối, người bảo lãnh không được kháng cáo hay lập một hồ sơ
Chủ Nhật, 14 Tháng Tám 2022(Xem: 9143)
(Robert Mullins International) Nên bảo lãnh diện vợ - chồng hay hôn phu - thê? Bảo lãnh diện vợ - chồng không bảo đảm là hồ sơ sẽ được Lảnh sự dễ dàng chấp thuận, nhưng hồ sơ này sẽ dễ gây ấn tượng tốt đối với nhân viên lãnh sự hơn là hồ sơ hôn phu - thê. Bảo lãnh vợ - chồng thường đòi hỏi người bảo lãnh phải có ít nhất hai chuyến đi Việt Nam - một chuyến đi để gặp mặt trực tiếp và chuyến đi thứ hai để kết hôn. Đôi khi người bảo lãnh cần phải đi chuyến thứ ba chỉ để ký giấy hôn thú vì không đủ thời gian hoàn tất thủ tục xin hôn thú rất nhiêu khê trong lần thứ hai về Việt Nam. Đó là lý do tại sao một số người chọn bảo lãnh diện hôn phu - thê. Trong cả hai diện bảo lãnh vợ - chồng và hôn phu - thê, điều quan trọng nhất vẫn là bằng chứng liên lạc: emails, thư từ, hình ảnh, liên lạc qua các mạng xã hội, những chuyến về Việt Nam, v.v… Sở di trú đôi khi đòi hỏi phải có bản sao cùi vé máy bay, hoặc những trang trong sổ thông hành (passport) có đóng mộc ghi nhận ngày đến và rời khỏi Việt N
Chủ Nhật, 07 Tháng Tám 2022(Xem: 9097)
(Robert Mullins International) Một người vợ hoặc chồng là người ngoại quốc nhập cảnh Hoa Kỳ với loại chiếu khán (visa) phi-di-dân, không vi phạm diện nhập cảnh, có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh nếu họ hợp lệ để xin chiếu khán di dân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp nộp đơn xin thẻ xanh theo diện đầu tư EB-5 trực tiếp kinh doanh, hay lao động EB-3. Chúng tôi sẽ viết về 2 diện EB này trong những kỳ tới. Nếu qúy vị là khách du lịch với chiếu khán loại B-2, hoặc là sinh viên du học, hoặc nhập cảnh với chiếu khán miễn thị thực WT, qúy vị có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh sau khi kết hôn với một công dân Mỹ.
Thứ Hai, 01 Tháng Tám 2022(Xem: 8161)
(Robert Mullins International) Tiếp theo phần 1 kỳ trước, việc nhận con nuôi quốc tế từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đã không còn giới hạn đối với trẻ em có nhu cầu đặc biệt, trẻ em trên năm tuổi và trẻ em trong nhóm anh chị em ruột. Chúng tôi tiếp tục giai đoạn 4 đến 6 trong thủ tục xin nhận con nuôi gồm có 6 giai đoạn. Sau khi bạn chấp nhận được kết hợp với một đứa trẻ cụ thể, bạn sẽ nộp đơn lên USCIS để được chấp thuận tạm thời cho đứa trẻ đó nhập cư vào Hoa Kỳ bằng cách nộp Mẫu I-800, Đơn Yêu cầu Phân loại Người nhận con nuôi Công ước là Người thân ngay lập tức. USCIS sẽ đưa ra quyết định tạm thời về việc liệu đứa trẻ có đáp ứng định nghĩa của một người được chấp nhận Công ước hay không và có khả năng đủ điều kiện để được nhận vào Hoa Kỳ hay không.