Biến Cố 30-4 Và Cộng Đồng Người Việt Di Dân

Thứ Năm, 26 Tháng Tư 200700:00(Xem: 114022)
Biến Cố 30-4 Và Cộng Đồng Người Việt Di Dân

Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, nhằm mục đích thông báo các tin tức thời sự liên quan đến vấn đề đoàn tụ gia đình, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân.  Mọi đóng góp ý kiến xin liên lạc 1-800-411-0495

Biến cố 30 Tháng 4 lại một lần nữa đến với cộng đồng di dân người Việt Nam. Đã 32 năm, nhìn trăng nhớ quê hương, có ai quên được biến cố đau thương ấy.

Cả triệu người Việt tìm cách thoát khỏi Việt Nam, trở thành những người di dân "bất hợp pháp" đối với chế độ Cộng Sản Việt Nam, nhưng họ là những người di dân đầy lòng can đảm và tự trọng đối với các dân tộc tự do trên thế giới. Hàng trăm ngàn người Việt đã không thể đến bến bờ tự do và phải "định cư" vĩnh viễn trên biển Thái Bình.

Nhân ngày tưởng niệm biến cố 30 Tháng 4, về khía cạnh di trú của người Việt Nam, chúng ta sẽ có dịp ôn lại những trang sử di trú đặc thù của người Việt Nam. Để có cái nhìn khách quan về đề tài này, Văn Phòng Robert Mullins International xin trích lược
bài viết "Lịch Sử Di Dân Việt Nam" (The History of Vietnamese Immigration) của ông Marc Povel, được đăng tải trên diễn đàn American Immigration Law Foudation, viết lại bối cảnh tổng quát của những người Việt tha hương trên xứ lại quê người....

*

Lịch sử di dân Việt Nam đến Hoa Kỳ còn rất mới mẻ. Trước năm 1975, hầu hết những Việt Nam cư ngụ tại Hoa Kỳ là vợ/chồng và con cái của các nhân viên Mỹ từng làm việc ở Việt Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sự sụp đổ của Sài Gòn đã chấm dứt cuộc chiến Việt Nam và đưa đến một trong hai làn sóng di dân lớn lao từ Việt Nam đến Hoa Kỳ. Những người Việt Nam từng làm việc với chính phủ Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam lo sợ sự trả trù của đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn 125.000 người Việt Nam đã phải rời bỏ quê hương trong suốt mùa Xuân 1975. Họ được chở bằng máy bay hoặc trốn khỏi Việt Nam trên những chiếc tàu quân sự Mỹ và được chuyển đến các căn cứ của chính phủ Hoa Kỳ tại Guam, Thái Lan, Wake Island, Hawaii và Phi Luật Tân, trong một công tác được mệnh danh là "Chiến Dịch Đời Sống Mới". Sau đó, họ được chuyển đến bốn trung tâm tỵ nạn trong lãnh thổ Hoa Kỳ, đó là: Camp Pedleton ở tiểu bang California; căn cứ Fort Chaffee tại tiểu bang Arkansas; Căn Cứ Không Quân Eglin tại tiểu bang Florida, và căn cứ Fort Indiantown Gap tại tiểu bang Pennsylvania.

Khởi đầu, làn sóng di dânh Việt Nam không được chào đón nồng hậu bởi một số quần chúng Mỹ. Một cuộc trưng cầu ý kiến năm 1975 cho thấy khoảng 36% người Mỹ không "mặn mà" lắm với việc di dân người Việt Nam. May mắn thay, chính quyền Tổng thống Ford đã hỗ trợ việc nhập cư của di dân Việt và đã thông qua Đạo luật Di Dân và Tỵ Nạn Đông Dương 1975. Đạo luật này lập một chương trình trợ giúp tái định cư những người tỵ nạn vượt thoát khỏi Cam Bốt và Việt Nam.

Năm 1977, một làn sóng thứ hai của người tỵ nạn Việt Nam đã tái diễn từ Việt Nam. Làn sóng di dân này kéo dài cho đến giữa thập niên 1980. Làn sóng vượt biển, vượt biên lần thứ hai này là hệ quả của chính sách mới mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam áp đặt trên cả dân tộc như kinh tế, chính trị và nông nghiệp dựa trên chủ thuyết cộng sản. Các chính sách này bao gồm cả việc bắt tù "cải tạo" và hành hạ các cựu binh lính Việt Nam Cộng Hòa và những người có liên hệ mật thiết với chính quyền miền Nam, đã đưa đến việc đóng cửa các doanh nghiệp lớn của các doanh nhân Việt Nam và người Việt gốc Hoa qua chính sách tiêu diệt "tư sản mại bản", chiếm ruộng đất, cũng như cưỡng bách việc tái định cư nhiều gia đình từ thành thị đến các vùng thôn quê khô cằn sỏi đá chưa được khai hoang hoặc bị tàn phá trong thời chiến tranh. Trong suốt thời gian này, gần 2 triệu người đã trốn khỏi Việt Nam trên những con tàu nhỏ bé phải chứa quá nhiều người.

Danh từ "thuyền nhân" đã có từ đó.

Hầu hết các thuyền nhân đến nương náu tại các trại tỵ nạn ở Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba, Nam Dương, Phi Luật Tân và Hồng Kông, chờ tái định ở các quốc gia khác. Để giúp đỡ tỵ nạn Việt Nam, quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo Luật Tỵ Nạn năm 1980 để giảm các điều luật hạn chế việc nhập cảnh Hoa Kỳ. Đạo Luật Tỵ Nạn năm 1980 định nghĩa quy chế người tỵ nạn, thành lập các Văn Phòng Tái Định Cư Người Tỵ Nạn, ấn định việc thu nhận 50.000 người tỵ nạn mỗi năm (ngoại từ những trường hợp khẩn cấp), và cho phép người tỵ nạn điều chỉnh diện cư trú của mình sau một năm để trở thành Thường trú nhân và sau bốn năm có thể xin nộp đơn nhập tịch Hoa Kỳ. Thêm vào đó, nhiều đạo luật cũng đã được thông qua để cho phép đưa con cái các nhân viên, binh lính Hoa Kỳ, và các cựu tù nhân "cải tạo" được tái định cư ở Hoa Kỳ. Tổng cộng, chính phủ Hoa Kỳ đã chấp nhận 531,310 người tỵ nạn và các diện tạm dung khác từ Việt Nam đến Hoa Kỳ trong thời gian từ năm 1981 đến năm 2000.

Sau khi đến Hoa Kỳ, những người di dân chân ướt chân ráo này sẽ liên hệ với một trong chín cơ quan thiện nguyện có nhiệm vụ phối hợp việc tái định cư sau cùng với những người bảo lãnh với các cộng đồng trên khắp Hoa Kỳ. Nhà thờ và các gia đình là những nơi thích hợp bảo trợ gia đình Việt Nam, cung cấp thực phẩm, quần áo và nơi ở cho người tỵ nạn đến khi họ có thể tự túc được. Những người bảo trợ cũng có trách nhiệm giúp đỡ những người di dân mới nhập cư tìm công ăn việc làm, ghi danh trường học cho con cái họ và những điều chỉnh tổng quát để hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ. Mục đích chính sách chi tiêu của chính phủ là không gây gánh nặng cho các nguồn xã hội của một thành phố đặc thù nào hay đồng hóa người Việt Nam vào xã hội càng nhanh càng tốt. Cũng như, chính phủ cũng không xem nhu cầu của người tỵ nạn là chuyện riêng của họ và xem họ khó thể hội nhập vào một xã hội xa lạ. Vào thập niên 90, khá đông người Việt Nam đã rời khỏi nơi tái định cư ngắn ngủi của họ để đoàn tụ với gia đình hay bằng hữu tại các thành phố lớn và từ đó thành lập các cộng đồng Việt Nam.

Hiện nay, khoảng 40% người Mỹ gốc Việt sống ở Orange County, tiểu cang California. Các cộng đồng người Việt khác, tương đối nhỏ hơn, được ghi nhận ở San Jose, phía Bắc tiểu bang California; Houston, tiểu bang Texas, và thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

Giống như các nhóm cộng đồng di dân Mỹ gốc Á Châu khác, các cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã mang lại sức sống mới cho nhiều thành phố. Về tiếng mẹ đẻ, khoảng một triệu người nói tiếng Việt trong gia đình và trở thành ngoại ngữ được sử dụng đứng hàng thứ bảy tại Hoa Kỳ. Thống kê mới đây cho thấy trong 83% các gia đình người Mỹ gốc Việt, tiếng Việt là ngôn ngữ chính được sử dụng. Thêm vào đó, nói về người tỵ nạn, người Mỹ gốc Việt có tỷ lệ nhập tịch cao nhất trong các nhóm di dân.

Người Mỹ gốc Việt đã thích nghi với văn hóa Mỹ, tuy nhiên vẫn còn giữ nguyên vẹn các truyền thống và nguyên lý tôn giáo của họ. Đối với họ, hệ thống giá trị bao gồm mong đợi học vấn cao và tận tụy lo lắng cho gia đình. Họ đặt tầm quan trọng đặc biệt vào giáo dục, vì vậy một phần đang phát triển nhanh chóng của số người Mỹ gốc Việt định cư đã chuyển sang nắm giữ những chức vụ chuyên môn, quản lý và doanh nghiệp, đặc biệt trong lãnh vực kỹ thuật cao và ở những địa điểm như Silicon Valley.

Trong một thời gian tương đối ngắn, người Mỹ gốc Việt đã đóng góp nhiều vào xã hội Mỹ. Nhiều người đã tỏ ra rất quan tâm đến nhiệm vụ công dân. Trong nhiều thành phố ở California, kể cả Westminster và Garden Grove, người ta đã chứng kiến cảnh những người Mỹ gốc Việt phục vụ trong các văn phòng công cộng, trong khi đó có những người khác như dân biểu Trần Thái Văn đang phục vụ tận tụy trong các văn phòng tiểu bang ở California. Một người Mỹ gốc Việt có tầm cỡ khác, tận tâm trong ngành công cộng là ông John Quốc Dương, đang phục vụ dưới quyền Tổng Thống George W. Bush với chức vụ giám đốc điều hành của White House Initiative on Asian Americans and Pacific Islanders.

Tương tự, người Mỹ gốc Việt đã có tác động mạnh trên các ngành giải trí và thể thao. Anh Phan Đạt đã đoạt giải nhất của chương trình tìm kiếm nhân tài có tên là "Last Comic Standing in 2003" của NBC, trong khi anh Nguyễn Đạt là một cầu thủ chuyên nghiệp về bóng chày của hội NFL, dẫn đầu đội phòng thủ của Dallas Cowboys.

Do sự bình thường hóa gần đây của mối liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, cũng như tỷ lệ tiếp tục gia tăng mạnh của sự nghèo khó ở Việt Nam, người ta tin rằng số lượng di dân Việt vào Hoa Kỳ sẽ còn tiếp tục với một tỷ lệ rất cao, nhất là qua chương trình đoàn tụ gia đình. Theo thống kê dân số năm 2000, hiện đang có 1.223.736 người Mỹ gốc Việt. Họ là nhóm di dân Á Châu lớn thứ năm sau các nhóm di dân Tàu, Phi Luật Tân, Ấn Độ và Đại Hàn. Tuy nhiên, các thống kê gần đây cho thấy rằng đến năm 2010, những người Mỹ gốc Việt sẽ vượt qua tất cả các nhóm Á Châu khác, ngoại trừ di dân Tàu, để trở thành nhóm dân cư Mỹ gốc Á lớn thứ nhì ở Hoa Kỳ.


Quý độc giả quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân muốn có thêm tin tức cập nhật, xin theo dõi qua báo chí hay đón nghe chương trình phát thanh của chúng tôi vào mỗi tối thứ Tư từ 7PM và sáng Chủ Nhật từ 11:00AM, trên các làn sóng 860AM, 1430AM, 1500AM, và 106.3FM. Hoặc quý vị liên lạc với một trong những văn phòng Robert Mullins International gần nhất: Westminster: (714) 890-9933 , San Jose (408) 294-3888, Oakland-San Francisco: (510) 533-8228, Sacramento (916) 393-3388 hay qua Email: info@rmiodp.com.

Thứ Tư, 28 Tháng Ba 2012(Xem: 140080)
Từ trước đến nay, khi Sở di trú Hoa Kỳ từ chối một hồ sơ xin Thẻ Xanh, ta có thể đoán ngay hồ sơ này liên quan đến một ngoại kiều đã kết hôn với một công dân Mỹ và sau đó nộp đơn xin Thẻ Xanh kèm theo một đơn bảo lãnh xin chiếu khán di dân. Sở di trú đương nhiên nghi ngờ những hồ sơ tương tự và họ sẽ tìm kiếm những chỉ dấu cho thấy cuộc hôn nhân này hiện hữu chỉ vì mục đích di trú mà thôi.
Thứ Tư, 21 Tháng Ba 2012(Xem: 136830)
Một cách tổng quát, các đương đơn sẽ hợp lệ nếu họ là những người được bảo lãnh khi đơn xin chiếu khán (visa) của họ đến kỳ đáo hạn, hoặc họ sẽ được xem là hợp lệ ngay khi đơn bảo lãnh được nộp chung với đơn xin Thẻ Xanh.
Thứ Tư, 14 Tháng Ba 2012(Xem: 119494)
Nếu bạn là một sinh viên ngoại quốc đang ở Hoa Kỳ với chiếu khán (visa) F-1, và bạn kết hôn với một công dân Mỹ, bạn có thể đoan chắc rằng Sở di trú sẽ xem xét đơn xin Thẻ Xanh của bạn rất kỹ lưỡng. Trên thực tế, hầu như lúc nào cũng vậy, Sở di trú sẽ giả định ngay từ đầu là bạn muốn kết hôn chỉ vì mục đích di trú, tức là chỉ vì bạn muốn ở lại Mỹ hợp pháp mà thôi.
Thứ Hai, 20 Tháng Hai 2012(Xem: 118086)
Đây là câu hỏi dành cho những người đang ở Hoa Kỳ hợp pháp nhưng là phi-di-dân, và đang có một hồ sơ bảo lãnh đáo hạn. Đây là những hồ sơ thường là con cái hoặc anh chị em của một công dân Mỹ đã đến Hoa Kỳ như một sinh viên - học sinh du học hay du khách.
Thứ Hai, 20 Tháng Hai 2012(Xem: 116236)
Mới đây, chúng tôi được nghe về đơn xin nhập quốc tịch Hoa Kỳ của một thường trú nhân đã bị từ chối chỉ vì người đàn ông này đã không ghi danh tuyển mộ quân dịch. Hệ Thống Tuyển Mộ Lính (tức Selective Service System) muốn mọi người đều hiểu rằng việc đòi hỏi phải ghi danh tuyển mộ quân dịch vẫn còn hiệu lực.
Thứ Hai, 20 Tháng Hai 2012(Xem: 112784)
Như mọi năm, Phòng Công Chứng Liên Bang đã phổ biến bảng quy định mới về mức lợi tức tối thiểu cho năm 2012, và sẽ chính thức được áp dụng kể từ tháng 4 năm 2012.
Thứ Năm, 16 Tháng Hai 2012(Xem: 114404)
Hiệp định xin con nuôi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã hết hạn vào ngày 1 tháng Chín năm 2008. Hiện nay, cả hai nước đồng ý ngưng tiến hành duyệt xét những hồ sơ xin con nuôi cho đến khi Hoa Kỳ và Việt Nam ký một hiệp định mới.
Thứ Năm, 09 Tháng Hai 2012(Xem: 108467)
Dân biểu David Rivera, thuộc đảng Cộng Hòa tại tiểu bang Florida, vừa đệ trình một dự luật mới chỉ dành cho lính nằm trong dự luật "Ước Mơ" (tức DREAM Act) đã được nói đến từ thời gian qua nhưng chưa thành luật chính thức. Dự luật mới này được mang tên H.R. 3823: Adjusted Residency for Military Service Act (gọi tắt là ARMS Act) và tạm dịch là "H.R 3823: Dự Luật Điều Chỉnh Tình Trạng Cư Trú Cho Người Phục Vụ Trong Quân Đội".
Thứ Tư, 01 Tháng Hai 2012(Xem: 115153)
Mới đây, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã phổ biến một số thông tin đáng chú ý liên quan đến Thẻ Thông Hành bỏ túi, Chương Trình Thử Nghiệm Chiếu Khán và việc cấp phát chiếu khán loại H2A và H2B cho những quốc gia mới.
Thứ Tư, 25 Tháng Giêng 2012(Xem: 122189)
Hỏi: Tôi là một công dân Mỹ. Tôi đã bảo lãnh vợ tôi và cô ấy đã nhận được Thẻ Xanh tạm thời có giá trị hai năm. Vợ tôi theo dự tính sẽ nộp đơn xin Thẻ Xanh thường trú chính thức trước khi Thẻ Xanh tạm thời hết hạn hai năm, nhưng chúng tôi đã ly thân và sẽ ly dị chính trong tương lai. Tôi có bổn phận tiếp tục bảo lãnh để vợ tôi có Thẻ Xah thường trú nhân chính thức hay không mặc dù chúng tôi đang ly dị? Liệu tôi sẽ tiếp tục bổn phận bảo trợ tài chánh sau khi hôn nhân chấm dứt hay không?